Các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cần thiết, là một chế định quan trọng trong tố tụng hình sự. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước đã quy định nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau. Những biện pháp ngăn chặn là một trong những nhóm của biện pháp cưỡng chế. Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có những hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như đảm bảo thi hành án. Những biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác.
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị cách li khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền của công dân.
14 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2265 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nội dung về tạm giam được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục.
1.Mở đầu……………………………………………………………………………1
Nội dung về tạm giam được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự.…………...1
2.1 Mục đích của việc tạm giam.……………………………………………..…2
2.2 Đối tượng áp dụng.…………………………………………………….....…3
2.3 Thẩm quyền ra lệnh tạm giam.………………………………………….......4
2.4 Thủ tục tạm giam.……………………………………………………...……5
2.5 Chế độ tạm giam.……………………………………………………………5
2.6 Thời hạn tạm giam.…………………………………………………….……5
2.7 Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với thân nhân và tài sản của người bị tạm giam.………………………………………………………….………8
3. Đề xuất hoàn thiện những quy định về tạm giam. ………………………………8
3.1 Về căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam và việc hạn chế biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm nhất định.………………………………………8
3.2 Về việc thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam.………………………………………………………….……10
3.3 Về việc áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tạm giam đối với những trường hợp đặc biệt.………………………………………………………….……11
4. Kết thúc. ………………………………………………………………..………12
1.Mở đầu
Các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cần thiết, là một chế định quan trọng trong tố tụng hình sự. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước đã quy định nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau. Những biện pháp ngăn chặn là một trong những nhóm của biện pháp cưỡng chế. Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có những hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như đảm bảo thi hành án. Những biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác.
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị cách li khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền của công dân.
2. Nội dung về tạm giam được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự.
Tạm giam được quy định tại điều 88 Bộ luật TTHS:
“1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
2. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
3. Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
4. Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.
2.1 Mục đích của việc tạm giam.
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự. Vì vậy, ngoài mục đích chung thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn nhất định, việc áp dụng biện pháp này còn có mục đích riêng nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng. Chẳng hạn, việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra có thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp cho việc quản lý, giám sát bị can được chặt chẽ; việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm đảm bảo cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được thuận lợi.
2.2 Đối tượng áp dụng.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những người không phải bị can, bị cáo thì không bị áp dụng biện pháp này. Khoản 1 Điều 88 Bộ luật TTHS quy định các trường hợp bị tạm giam như sau:
Trường hợp thứ nhất: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng.
Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà theo quy định của BLHS thì mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chugn thân hoặc tử hình (tội phạm đặc biệt ngiêm trọng) hoặc mức cao nhất của khung hình phạt là đến 15 năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng). Việc áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp này cần hai điều kiện:
•Người thực hiện tội phạm là người đã bị khởi tố bị can hoặc đã bị Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử với tư cách là bị cáo.
•Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng.
Trường hợp thứ hai: Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Để tạm giam trong trường hợp này cần có ba điều kiện:
Người thực hiện tội phạm là bị can, bị cáo;
Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù từ trên hai năm. Trong một điều luật có nhiều khoản thì phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt trên hai năm tù có thể bị tạm giam, phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt tù dưới hai năm thì không được tạm giam.
Có căn cứ để cho rằng người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố. xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Để xác định điều kiện này phải căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc. Khi phạm tội thuộc những trường hợp trên, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam. Tuy vậy, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang trong thời kì nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không được tạm giam mà phải áp dụng các biện pháp khác, trừ những trường hợp sau đây:
• Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
• Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
• Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
2.3 Thẩm quyền ra lệnh tạm giam.
Khoản 3 Điều 88 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can , bị cáo để tạm giam (quy định tại khoản 1 Điều 80 Bộ luật TTHS) thì có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam mà của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thời hạn mà Viện kiểm sát phải xem xét để ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra là ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam. Viện kiểm sát phải hoàn trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn dù có phê chuẩn hay không.
2.4 Thủ tục tạm giam.
Việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ tên chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lí do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản.
Sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng cần tạm giam, tránh trường hợp nhầm lẫn. Đồng thời cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết để gia đình họ cũng như các cơ quan, tổ chức biết được sự việc và không phải tiến hành những thủ tục tìm kiếm không cần thiết, gây tốn kém
2.5 Chế độ tạm giam.
Tạm giam không phải là hình phạt mà là những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Việc áp dụng biện pháp tạm giam không phải nhằm trừng trị người phạm tội mà là để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội. Vì vậy chế độ tạm giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù. Người bị tạm giam chỉ chấp hành các quy định của Chính phủ về chế độ đi lại, sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình trong thời gian bị tạm giam.
2.6 Thời hạn tạm giam.
Theo quy định của BLTTHS 2003 thì tạm giam được áp dụng trong các giai đoạn: Điều tra, truy tố, xét xử. Thời hạn tạm giam bị can, bị cáo được quy định theo những căn cứ khác nhau phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Trong giai đoạn điều tra, có các loại thời hạn tạm giam sau: Thời hạn tạm giam để điều tra, thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra, thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung và thời hạn tạm giam để điều tra lại. Thời hạn tạm giam và việc gia hạn tạm giam để điều tra được quy định tại Điều 120 BLTTHS và phụ thuộc vào từng loại tội. Cụ thể là thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam. Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng; đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
Thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra được quy định tại khoản 4 Điều 121 BLTTHS. Trong trường hợp có căn cứ quy định trong BLTTHS cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra không được quá thời hạn phục hồi điều tra quy định tại khoản 1 Điều 121 BLTTHS. Thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung không quá thời hạn điều tra bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 121 BLTTHS. Như vậy thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung không phụ thuộc vào loại tội mà phụ thuộc vào cơ quan trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Giai đoạn truy tố, thời hạn tạm giam được quy định tại khoản 2 Điều 166BLTTHS và không được quá thời hạn để ra một trong bốn quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng một bản cáo trạng, trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Thời hạn tạm giam trong giai đoạn này cũng được quy định đối với từng loại tội phạm: hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng .
Giai đoạn xét xử sơ thẩm, có các loại thời hạn: thời hạn tạm giam để đảm bảo cho việc xét xử sơ thẩm, thời hạn tạm giam để đảm bảo cho việc thi hành án. Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử sơ thẩm gồm hai loại, loại thứ nhất là thời hạn được tính bằng ngày, tháng và được ghi trong lệnh tạm giam do chánh án, phó chánh án tòa án quyết định sau khi thụ lí hồ sơ vụ án. Thời hạn này được quy định cụ thể với từng loại tội, cụ thể là ba mươi ngày đối với tội ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội nghiêm trọng, hai tháng đối với tội rất nghiêm trọng và ba tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Loại thứ hai được tính bằng sự kiện “kết thúc phiên tòa” được quy định tại Điều 227, 228 BLTTHS. Thời hạn này chỉ xuất hiên khi thời hạn thứ nhất đã hết mà không có căn cớ để thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam đang được áp dụng và trả tự do cho bị cáo. Thời hạn này không phụ thuộc vào loại tội phạm mà giống nhau đối với tất cả các loại tội. Thời hạn này được ghi trong lệnh tạm giam do chánh án, phó chánh án quyết định (lần thứ hai) với mục đích để đảm bảo cho việc xét xử.
Giai đoạn xét xử phúc thẩm, giai đoạn này cũng có thời hạn để đảm bảo cho việc xét xử phúc thẩm và thời hạn tạm giam sau khi tuyên án phúc thẩm. Thời hạn tạm giam để đảm bảo cho việc xét xử phúc thẩm cũng giống thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm. Thời hạn tạm giam sau khi tuyên án phúc thẩm được quy định tại Điều 243 BLTTHS. Ở giai đoạn xét xử phúc thẩm có hai thời điểm áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam (trước và sau khi xét xử sơ thẩm). Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn (trong đó có biện pháp tạm giam) trước khi xét xử phúc thẩm được quy định tại khoản 1 và 2 Điều 243 BLTTHS. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn sau khi tuyên án được quy định tại khoản 3 Điều 243 và khoản 5 Điều 250 BLTTHS.
Ngoài các thời hạn nói trên còn một loại thời hạn nữa được đề cập tại Điều 287 BLTTHS, đó là thời hạn tạm giam đối với các bị cáo đang bị tạm giam mà tòa án cấp giám đốc thẩm hủy án để xét xử lại. 2.7 Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với thân nhân và tài sản của người bị tạm giam.
Khi người bị , tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc, thì cơ quan ra quyết định , lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích chăm nom. Trong trường hợp người bị , tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định , lệnh tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom. Trong trường hợp người bị , tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết , lệnh tạm giam phải áp dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng.
Sau khi đã áp dụng những biện pháp bảo hộ đối với thân nhân và tài sản, Cơ quan ra quyết định , lệnh tạm giam thông báo cho người bị , tạm giam biết những biện pháp đã được áp dụng.
3. Đề xuất hoàn thiện những quy định về tạm giam.
3.1 Về căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam và việc hạn chế biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm nhất định.
Theo tiêu chí của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành (Điều 88, Điều 303), căn cứ để áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tạm giam dựa vào một số loại tiêu chí như dựa vào sự phân loại tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự, dựa vào khả năng mà bị can, bị cáo có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra , truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội; dựa vào một số yếu tố nhân thân, lai lịch như tuổi, tình trạng sức khỏe, tình trạng đang thai sản hoặc tình trạng đang nuôi con nhỏ của bị can, bị cáo là phụ nữ... Theo tôi, những căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam được nêu ở khoản 1 và khoản 2 Điều 88 BLTTHS là chưa thực sự phù hợp và chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Cần xuất phát từ mục đích của việc áp dụng biện pháp tạm giam để xác định căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn này cho phù hợp, đồng thời cũng tránh việc áp dụng biện pháp tạm giam một cách tùy tiện hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn này như một biện pháp để thay cho các biện pháp điều tra. Vì tạm giam không phải là một hình phạt mà chỉ là một biện pháp ngăn chặn việc bị can, bị cáo trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm một tội mới nên cần phải coi khả năng bị can, bị cáo có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội là căn cứ chủ yếu để xem xét, quyết định việc tạm giam. Ngoài ra cũng cần xem xét đến một số yếu tố khác có thể được dùng làm căn cứ để áp dụng ( hoặc không áp dụng) biện pháp ngăn chặn này như khả năng gây nguy hại đến an ninh quốc gia hoặc trật tự an toàn xã hội của bị can, bị cáo nếu không tạm giam họ, loại và mức hình phạt mà BLHS quy định đối với hành vi phạm tội được thực hiện, một số yếu tố về nhân thân,...
Liên quan đến việc hạn chế việc tạm giam bị can, bị cáo đối với một số lọai tội phạm, BLTTHS của nước ta chưa có quy định đối với loại (nhóm) tội phạm nào thì có thể hạn chế việc tạm giam. Trên thực tế có những trường hợp bị can, bị cáo phạm tội thuộc nhóm tội phạm về kinh tế- chức vụ, họ có nơi cư trú rõ ràng, có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, họ không có khả năng và điều kiện thực tể đề có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội nhưng họ vẫn bị tạm giam vì lý do đơn giản để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử.
Theo tôi, việc hạn chế bị can, bị cáo đối với một số loại tội phạm là rất cần thiết. Trong điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay có thể hạn chế việc tạm giam bị can, bị cáo đối với một số loại tội phạm sau:
- Nhóm tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế;
- Nhóm tội phạm về môi trường;
- Một số tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu (như cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản,...)
- Một số tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và trật tự quản lí hành chính,
- Một số tội phạm thuộc nhóm tội phạm về chức vụ và nhóm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp;
3.2 Về việc thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam:
Do tạm giam là hình thức ngăn chặn liên quan trực tiếp đến quyền tự do cá nhân được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, nên trình tự, thủ tục, thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn này cần phải được pháp luật quy định chặt chẽ. Pháp luật tố tụng hình sự chỉ nên giới hạn số lượng đối tượng có thẩm quyền quyết định việc tạm giam theo hướng:
Về nguyên tắc chỉ nên giao cho cấp Trưởng (Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án tòa án) có quyền quyết định việc tạm giam. Trong trường hợp cấp Trưởng vắng mặt thì cấp Phó được cấp Trưởng ủy quyền mới có thẩm quyền này.
Không giao cho người của Cơ quan điều tra thẩm quyền này mà họ chỉ có quyền đền nghị Viện kiểm sát cùng cấp xem xét, quyết định việc tạm giam bị can, bị cáo nếu có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật, tránh tình trạng lạm dụng biện pháp tạm giam của Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
Đối với cơ quan công an nói chung và các điều tra viên nói riêng, cần phải thường xuyên học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức chính trị, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật. nắm chắc các quy định của pháp luật về bắt , tạm giam; hiểu rõ tính chất, mục đích của các biện pháp tạm giam; đảm bảo khi thực hiện bắt người để tạm giam phải có lệnh và có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, hạn chế tình trạng “tiền trảm hậu tấu” khi bắt người; tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, người bị , người bị tạm giam; phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia quá trình bắt, tạm giam khi giải quyết vụ án.
3.3 Về việc áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tạm giam đối với những trường hợp đặc biệt.
Trường hợp bị can, bị cáo phạm