Đề tài Phân tích chế định Ly hôn với việc bảo vệ quyền lợi bà mẹ và trẻ em

Hôn nhân là hiện tượng xã hội mà luôn luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm, tuy nhiên nếu kết hôn là hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng, thì ly hôn cũng là một mặt trái của quan hệ hôn nhân. Tuy vậy, nó cũng là mặt không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và hạnh phúc của vợ chồng, đến lợi ích của gia đình và xã hội. Với tư cách là một mặt của quan hệ hôn nhân, pháp luật hôn nhân và gia đình xây dựng một phần gọi là chế định hôn nhân, nhằm điều chỉnh quan hệ nhân thân, tài sản giữa các đối tượng muốn ly hôn và con cái họ. Hệ thống pháp luật Hôn nhân và gia đình nước ta từ năm 1945 đến nay quy định vấn đề ly hôn với quan điểm vừa tôn trọng, bảo vệ quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, vừa giải quyết lý do ly hôn bằng tình, bằng pháp luật Nhà nước kiểm soát quyền tự do ly hôn vì lợi ích gia đình và xã hội. Do là các đối tượng đặc biệt cần sự quan tâm và chăm sóc đặc biệt nên pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam đã ghi nhận nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em như một nguyên tắc cơ bản mang tính chất dẫn đường xuyên suốt toàn bộ luật. Chế định ly hôn cũng không nằm ngoài nguyên tắc cơ bản này. Do những đặc thù của việc ly hôn nên việc đảm bảo nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em là hoàn toàn cần thiết. Nó đã thể hiện rõ trong các điều luật của chế định ly hôn trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Thực tế cho thấy, phụ nữ và trẻ em là các đối tượng dễ bị tổn thương, quyền lợi hay bị vi phạm, đặc biệt là trong hoàn cảnh khó khăn như là ly hôn. Việc ghi nhận nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong chế định ly hôn là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với xu hướng thời đại.

doc14 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2305 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích chế định Ly hôn với việc bảo vệ quyền lợi bà mẹ và trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề số 13: Chế định ly hôn với việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em. BÀI LÀM ĐẶT VẤN ĐỀ: Hôn nhân là hiện tượng xã hội mà luôn luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm, tuy nhiên nếu kết hôn là hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng, thì ly hôn cũng là một mặt trái của quan hệ hôn nhân. Tuy vậy, nó cũng là mặt không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và hạnh phúc của vợ chồng, đến lợi ích của gia đình và xã hội. Với tư cách là một mặt của quan hệ hôn nhân, pháp luật hôn nhân và gia đình xây dựng một phần gọi là chế định hôn nhân, nhằm điều chỉnh quan hệ nhân thân, tài sản giữa các đối tượng muốn ly hôn và con cái họ. Hệ thống pháp luật Hôn nhân và gia đình nước ta từ năm 1945 đến nay quy định vấn đề ly hôn với quan điểm vừa tôn trọng, bảo vệ quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, vừa giải quyết lý do ly hôn bằng tình, bằng pháp luật Nhà nước kiểm soát quyền tự do ly hôn vì lợi ích gia đình và xã hội. Do là các đối tượng đặc biệt cần sự quan tâm và chăm sóc đặc biệt nên pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam đã ghi nhận nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em như một nguyên tắc cơ bản mang tính chất dẫn đường xuyên suốt toàn bộ luật. Chế định ly hôn cũng không nằm ngoài nguyên tắc cơ bản này. Do những đặc thù của việc ly hôn nên việc đảm bảo nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em là hoàn toàn cần thiết. Nó đã thể hiện rõ trong các điều luật của chế định ly hôn trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Thực tế cho thấy, phụ nữ và trẻ em là các đối tượng dễ bị tổn thương, quyền lợi hay bị vi phạm, đặc biệt là trong hoàn cảnh khó khăn như là ly hôn. Việc ghi nhận nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong chế định ly hôn là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với xu hướng thời đại. NỘI DUNG Về nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em: Khái niệm nguyên tắc bảo vệ và mẹ và trẻ em. Hệ thống các nguyên tắc của Luật hôn nhân – gia đình từ khi được ban hành lần đầu tiên cho đến nay đã không ngừng được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Ngay từ Luật hôn nhân – gia đình đầu tiên năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, người phụ nữ và trẻ em đã là những đối tượng được nhà nước dành sự quan tâm và bảo vệ đặc biệt. Tuy nhiên, bảo vệ bà mẹ và trẻ em chưa được ghi nhận thành một nguyên tắc riêng mà đến Luật hôn nhân – gia đình 1986 mới được ghi nhận thành một nguyên tắc riêng gọi là “nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em”.Trong Luật hôn nhân – gia đình 2000, nguyên tắc này đã được phát triển ở mức cao hơn: “ Nguyên tắc bảo vệ quyền bà mẹ và quyền trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.” Việc tái sản xuất ra bản thân con người thông qua việc sinh đẻ của người phụ nữ đã đưa người phụ nữ lên vị trí người mẹ. Bảo vệ bà mẹ và tẻ em suy rộng ra chính là bảo vệ quyền làm mẹ của phụ nữ. Thiên chức cao quý này xuất phát từ chức năng sinh học tự nhiên mà không ai có thể thay đổi được. Nhờ đó mà pháp luật đã ghi nhận và bảo vệ nhiều quyền của phụ nữ. Trẻ em là tất cả công dân dưới 16 tuổi, mục đích của các chế định bảo vệ trẻ em là nhằm đảm bảo cho trẻ được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt nhất trong điều kiện có thể. Tính cần thiết tất yếu của việc ghi nhận nguyên tắc Từ bao đời nay, trong gia đình, người phụ nữ có vai trò vô cùng quan trọng và không thể thiếu được. Người phụ nữ là người chăm sóc và giáo dục con cái chủ yếu trong gia đình, sắp xếp, tổ chức cuộc sống gia đình, người phụ nữ giữ vai trò trọng yếu trong việc điều hòa các mối quan hệ gia đình và góp phần hỗ trợ chồng thành đạt trong cuộc sống. Trẻ em là tương lai của đất nước, là thành viên xã hội thuộc thế hệ sau. Bảo vệ trẻ em là bảo vệ quyền con người, là trách nhiệm của gia đình và toàn xã hội. Việc đầu tư cho công tác bảo vệ trẻ em là đầu tư cho sự phát triển nguồn nhân lực, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc nhằm góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Do đó, trẻ em phải được quan tâm, chăm sóc và bảo vệ cả về thể chất, trí tuệ và đạo đức để nối tiếp sự nghiệp cha ông. Do đó, một đòi hỏi tất yếu khách quan là phải bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em. Trên thực tế, bà mẹ và trẻ em là các đối tượng rất dễ bị tổn thương, quyền lợi hay bị vi phạm nên việc ghi nhận thành một chế định là hoàn toàn cần thiết. Đây cũng là một xu hướng tất yếu phù hợp với tình hình thế giới. Về chế định ly hôn Khái niệm ly hôn: Khái niệm ly hôn được quy định tại khoản 8 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “Ly hôn là chấm đứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoắc của cả hai vợ chồng.” Căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. * Căn cứ ly hôn do một bên vợ hoặc chồng nộp đơn xin ly hôn: - Điều 89. Luật hôn nhân gia đình - Căn cứ cho ly hôn: “ 1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng,đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn. 2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn” - Nghị quyết 02/2000/NQ -HĐTP ngày 23-12-2000 của Tòa án nhân dân tối cao có một số qui định nhằm làm rõ cụm từ “tình trạng trầm trọng,đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Được coi là tình trạng trầm trọng của vợ chồng khi: Vợ chồng không thương yêu, quí trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như: Người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hòa giải nhiều lần; Vợ chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau như: Thường xuyên đánh đập hoặc có hành vi khác xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hòa giải nhiều lần; Vợ chồng không chung thủy với nhau như: Có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình. Để có những cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như đã phân tích ở trên. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hòa giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. - Khoản 2 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định căn cứ thứ hai: để tòa án giải quyết việc ly hôn: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì tòa án giải quyết cho ly hôn”. Trong thực tiễn xét xử các án kiện ly hôn nhiều năm qua ở nước ta, khi chưa có Bộ luật dân sự năm 1995 tòa án vẫn giải quyết ly hôn theo yêu cầu của đương sự khi vợ, chồng của họ đã bị tuyên bố mất tích”.Khi Tòa án giải quyết cho ly hôn với người bị tuyên bố mất tích thì cần chú ý giải quyết việc quản lí tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo đúng qui định tại Điều 89 Bộ luật dân sự 1995. * Trường hợp thuận tình ly hôn - Điều 90.Thuận tình ly hôn: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận về tài sản và trên cơ sở bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của vợ và con; nếu không thỏa thuận được hoặc tuy có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của vợ và con thì Tòa án quyết định” Như vậy, việc pháp luật qui định và công nhận sự thuận tình ly hôn của hai vợ chồng là nhằm giải quyết và chấm dứt những mâu thuẫn, xung đột trầm trọng trong cuộc sống vợ chồng mà từ đó, mục đích của hôn nhân không đạt được, ảnh hưởng đến cuộc sống của con cái và các thành viên khác trong gia đình. Tuy nhiên, vợ chồng không thể xin ly hôn một cách tùy tiện,vô trách nhiệm mà phải phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội trên cơ sở cân nhắc đến lợi ích chung của gia đình con cái.Cũng theo Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, trong việc thuận tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện của cả hai vợ chồng, đòi hỏi vợ chồng còn phải có sự thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên trên cơ sở bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của vợ và con; nếu vợ chồng không thể thỏa thuận được, hoặc tuy có thỏa thuận được, hoặc tuy có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của vợ và con thì Tòa án quyết định.Bên cạnh những trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn, còn có nhiều trường hợp việc ly hôn chỉ xuất phát từ ý chí của một bên vợ chồng mà không có sự thuận tình của bên kia vì những lí do khác nhau: do không nhận thức được mâu thuẫn vợ chồng đã sâu sắc, trầm trọng, quan hệ hôn nhân đã tan vỡ hoặc có thể nhận thức được nhưng vẫn không muốn ly hôn vì động cơ nào đó như quyền lợi con cái …Theo qui định tại Điều 91, khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu xin ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thì Tòa án xem xét, giải quyết việc ly hôn.Về nguyên tắc Tòa án chỉ xét xử cho ly hôn nếu xét thấy quan hệ vợ chồng đã ở vào “tình trạng trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Như vậy, xét về bản chất giải quyết việc ly hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn hoặc mội bên vợ chồng yêu cầu là giống nhau. 3. Chế định ly hôn với việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em: a. Cơ sở lý luận: Thực tiễn ghi nhận rằng trong phần lớn trường hợp, người sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn về vật chất và tinh thần sau khi ly hôn là người vợ và các con sinh ra từ hôn nhân, nhất là các con chưa thành niên hoặc tật nguyền và không có khả năng lao động. Phụ nữ sau khi ly hôn chịu nhiều gánh nặng và trách nhiệm hơn nam giới, có những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà ta không tưởng tượng được. Đặc biệt, tình cảm mẫu tử là điều mạnh mẽ, không thể phủ nhận nên thường người mẹ sau khi ly hôn sẽ là người chăm sóc và nuôi dưỡng con cái trực tiếp. Đặc thù về giới khiến người mẹ thiệt thòi hơn nhiều so với cha đứa trẻ trong trường hợp ly hôn. Các con khi cha mẹ ly hôn ngoài chịu chấn động về tinh thần còn khó khăn trong điều kiện vật chất, lâm vào tình trạng hai nơi, điều kiện được chăm sóc bị hạn hẹp hơn, không được hưởng tình thương từ gia đình. Do đó, việc giải quyết yêu cầu ly hôn và các vấn đề phát sinh sau khi ly hôn phải được thực hiện dựa trên tư tưởng chủ đạo, theo đó, quyền và lợi ích chính đáng và hợp pháp của vợ và các con phải được ưu tiên bảo vệ. Hơn nữa, bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em chính là nguyên tắc chủ đạo được ghi nhận xuyên suốt cả Luật hôn nhân gia đình 2000, vì thế, không có lý do gì mà nó lại không đươc thể hiện tại chế định về ly hôn. b. Nội dung: - Về sự can thiệp của Tòa án nhân dân khi giải quyết việc ly hôn: Luật cho phép Tòa án nhân dân chủ động can thiệp trong trường hợp thuận tình ly hôn, một khi các thỏa thuận giữa vợ và chồng không thể hiện sự bảo đảm đúng mức các quyền và lợi ích đó. Điều 90 Luật hôn nhân gia đình quy định rõ : “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Toà án công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận về tài sản và con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con; nếu không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định.” Cả trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên, thẩm phán cũng có thể chủ động can thiệp vào việc giải quyết vấn đề trông giữ con (trong khi chỉ có thể can thiệp vào việc giải quyết các vấn đề về hệ quả tài sản của việc ly hôn, nếu có yêu cầu của một trong các bên hoặc cả hai bên). Khi can thiệp, thẩm phán phải đứng trên nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và để con quyết định. Hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng: Điều 85 Luật hôn nhân gia đình2000quy định quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn: “1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn; 2. Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn.” Quy định này là hoàn toàn cần thiết. Các nhà làm luật muốn gắn trách nhiệm của người chồng với người vợ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Thiên chức làm mẹ của người phụ nữ gắn liền với quá trình mang thai, chăm sóc và nuôi dưỡng con. Nhận định được điều này, luật hôn nhân gia đình Việt Nam hiện hành dành sự quan tâm đặc biệt đến quyền lợi của bà mẹ và trẻ em trong thời kỳ phụ nữa mang thai và nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Người phụ nữ trong thời kỳ này là thời kỳ rất nhạy cảm, thay đổi về tâm sinh lý, gặp nhiều khó khăn về vật chất cũng như tinh thần trong cuộc sống. Một người chồng ở bên cạnh là rất cần thiết để giúp người phụ nữ hoàn thành trọng trách thiêng liêng của một người mẹ. Đứa trẻ trong thời kỳ này cũng cần sự chăm sóc đặc biệt hơn vì tình trạng non yếu, mong manh của nó. Hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng trong thời kỳ này là hoàn toàn phù hợp, bởi ly hôn thường để lại cho người phụ nữ và trẻ em những gánh nặng tâm lý. Hậu quả xã hội của ly hôn tác động đến cuộc sống của người phụ nữ, làm cho họ không đảm bảo sức khỏe sinh sản để mang thai và làm mẹ an toàn, tác động nghiêm trọng đến cuộc sống vật chất và tinh thần của trẻ nhỏ, nên hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng là hoàn toàn cần thiết. Điều luật không được áp dụng trong trường hợp người xin ly hôn lại là người vợ. Điều này tạo điều kiện cho người vợ, một khi quan hệ vợ chồng trở nên căng thẳng phức tạp và chỉ làm cho người vợ thêm đau khổ, thì vợ có quyền lựa chọn và xin ly hôn. Đây là điểm hợp lý, cho người vợ có quyền chọn và quyết định trong mọi trường hợp. Nhưng cũng chính vì điểm này liên quan đến vấn đề nhân thân, tình cảm của các cặp vợ chồng là chính, nên khi giải quyết vấn đề ly hôn trong trường hợp này, các cán bộ xét xử lại càng phải điều tra rõ thực chất mối quan hệ vợ chồng như thế nào và xem xét đến lợi ích của người đang mang thai và nuôi con nhỏ, để khi quyết định ly hôn hay bác đơn ly hôn của người vợ là thực sự xuất phát từ việc bảo vệ quyền, lợi ích của bà mẹ và trẻ em. Phải đảm bảo áp dụng để làm sao quy định này thực sự vừa giải phóng phụ nữ, vừa đảm bảo ảnh hưởng ít nhất đến việc nuôi dưỡng con nhỏ và thai nhi Điều luật không được áp dụng trong trường hợp người xin ly hôn lại là người vợ, tuy nhiên vì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn, có vẻ như việc ly hôn do cả vợ và chồng cùng yêu cầu cũng không thể được tòa án thụ lý chừng nào người vợ còn đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Càng khó có thể được tòa án tiếp nhận đơn yêu cầu của người chồng có chữ ký của người vợ trong hoàn cảnh đó. Trái lại, đơn vẫn có thể tiếp nhận, nếu người đứng đơn là người vợ và đơn được nộp với sụ chứng nhận của người chồng. Kể cả vợ đang mang thai với người khác hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi với người khác thì người chồng cũng không có quyền ly hôn. Nếu trong trường hợp này mà người chồng có yêu cầu ly hôn thì giải quyết như sau: + Trong trường hợp chưa thụ lý vụ án: Tòa án áp dụng Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự 2005 để trả lại đơn ly hôn cho người nộp đơn. + Trong trường hợp đã thụ lý vụ án thì tòa án cần giải thích cho người nộp đơn biết là họ chưa có quyền yêu cầu xin ly hôn. Nếu người nộp đơn rút yêu cầu ly hôn thì áp dụng Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2005 và quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu người nộp đơn không rút đơn yêu cầu ly hôn thì tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung và quyết định bác đơn yêu cầu ly hôn của họ. Về nguyên tắc ưu tiên quyền nuôi con dưới 3 tuổi cho người phụ nữ: Theo điều 92 Luật hôn nhân gia đình 2000, về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác. Bảo vệ thiên chức làm mẹ của người phụ nữ, Luật hôn nhân gia đình đã quy định quyền ưu tiên nuôi con về phía người mẹ trong trường hợp ly hôn. Thiên chức làm mẹ của người phụ nữ gắn liền với việc được nuôi con. Thành ngữ Việt Nam có câu “ hổ dữ không ăn thịt con”, đã phần nào nói lên thứ tình cảm mẫu tử thiêng liêng. Tình phụ tử, tuy quan trọng thật, nhưng bà mẹ mới là người rứt ruột để con ra, tình yêu thương tự nhiên cũng lớn hơn nhiều. Mẹ và con là tình cảm gắn bó, không thể thay thế. Hơn nữa, người phụ nữ với thiên chức làm mẹ của mình sẽ mang đến cho đứa trẻ sự chăm sóc tốt nhất. Đặc thù của trẻ em dưới 3 tuổi là cuốn mẹ và đặc biệt cần bàn tay chăm sóc của người mẹ, từ việc ăn, uống, ngủ nghỉ đến học tập. Quan trọng hơn là để đứa con dưới 3 tuổi phải rời xa mẹ sẽ là chấn động tâm lý nặng nề, vì mẹ là phần quan trọng nhất, không thể thiếu được trong thế giới của chúng. Để mẹ nuôi con dưới 3 tuổi khi ly hôn là quy định hoàn toàn hợp lý, không chỉ là bảo đảm thiên chức làm mẹ của người phụ nữ mà còn bảo vệ quyền lợi cho đứa trẻ. Đây cũng là một ưu tiên, lợi thế mà Luật hôn nhân gia đình 2000 đã dành cho người mẹ và cũng là dành cho trẻ em dưới 3 tuổi. Về cơ bản, điều luật này là hoàn toàn hợp lý, không có gì đáng bàn cãi, đảm bảo nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em khi ly hôn. Đảm bảo ưu tiên cho phụ nữ và trẻ em khi giải quyết vấn đề chia tài sản chung theo các trường hợp luật đinh: Khoản b điều 95 Luật hôn nhân gia đình quy định về nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn: “Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Luật hôn nhân gia đình hiện hành quy định: tài sản chung vợ chồng có thể được chia trong các trường hợp: khi một bên vợ/chồng chết; khi vợ chồng ly hôn và khi hôn nhân đang tồn tại. Ngoài ra, trong quan hệ hôn nhân trái pháp luật, tài sản chung giữa hai bên nam nữ cũng được giải quyết theo yêu cầu của các bên. Trong trường hợp ly hôn, nhằm bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em, luật đã ra quy định ưu thế hơn nghiên về đối tượng này trong phần phân chia tài sản ly hôn., nghĩa là dành phần ưu thế trong việc phân chia tài sản chung khi ly hôn cho phụ nữ hoặc các con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Như vậy,bảo vệ quyền lợi bà mẹ và trẻ em đã trở thành nguyên tắc giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp vợ chồng ly hôn. Thực tiễn, khi áp dụng nguyên tắc này thường dành cho phụ nữ những lợi thế nhất định và tùy trường hợp cụ thế mà vận dụng ưu tiên cho phụ nữ và con là các đối tượng kể trên. Việc pháp luật ghi nhận sự ưu tiên này là hết sức phù hợp. Thứ nhất, đối với phụ nữ: sau khi ly hôn, người phụ nữ bao giờ cũng phải gánh chịu những thiệt thòi mang tính đặc thù về giới, cho nên cần phải dành cho họ một sự quan tâm đúng mực. Do vậy, bảo đảm sự ưu tiên đối với phụ nữ trong trường hợp này là hoàn toàn cần thiết, là nội dung quan trọng thể hiện vấn đề bình đẳng giới. Thứ hai,đối với con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tât, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tư nuôi mình. Các đối tượng này khi bố mẹ ly hôn là các đối tượng đáng thương nhất, không có khả năng sống sót nếu phải ở một mình, vì vậy, đương nhiên phần lợi thế về việc phân chia tài sản chung của bố mẹ khi ly hôn phải về phần các đối tượng này, ít nhất có thể đảm bảo cuộc sống tương đối ổn định của các đối
Luận văn liên quan