Đề tài Phân tích nội dung cơ bản của mỗi quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể và ý nghĩa của việc quy định các quyền, nghĩa vụ bảo lãnh ngân hàng

Trong điều kiện ngày nay, bảo lãnh ngân hàng đã trở thành một hoạt động phổ biến của các tổ chức tín dụng, là một trong các hình thức cấp tín dụng đem lại giá trị kinh tế. Với vai trò như vậy, bảo lãnh đã trở thành loại dịch vụ kinh doanh có nhiều tác động tích cực trong việc thúc đẩy các giao dịch về vốn, các giao dịch kinh doanh không chỉ ở trong lĩnh vực tín dụng mà cả trong dự thầu, thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm. Xét về bản chất, bảo lãnh ngân hàng là hình thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (giao dịch bảo đảm) mang tính phái sinh. Vấn đề được đặt ra là quan hệ bảo lãnh có phải là quan hệ hợp đồng hay chỉ là cam kết đơn phương? Hợp đồng bảo lãnh ngân hàng được ký kết giữa những chủ thể nào? Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng là gì? Tại sao pháp luật lại quy định các quyền và nghĩa vụ như vậy?

doc13 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2018 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích nội dung cơ bản của mỗi quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể và ý nghĩa của việc quy định các quyền, nghĩa vụ bảo lãnh ngân hàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: Phân tích nội dung cơ bản của mỗi quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể và ý nghĩa của việc quy định các quyền, nghĩa vụ bảo lãnh ngân hàng. Bài làm: I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Trong điều kiện ngày nay, bảo lãnh ngân hàng đã trở thành một hoạt động phổ biến của các tổ chức tín dụng, là một trong các hình thức cấp tín dụng đem lại giá trị kinh tế. Với vai trò như vậy, bảo lãnh đã trở thành loại dịch vụ kinh doanh có nhiều tác động tích cực trong việc thúc đẩy các giao dịch về vốn, các giao dịch kinh doanh không chỉ ở trong lĩnh vực tín dụng mà cả trong dự thầu, thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm... Xét về bản chất, bảo lãnh ngân hàng là hình thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (giao dịch bảo đảm) mang tính phái sinh. Vấn đề được đặt ra là quan hệ bảo lãnh có phải là quan hệ hợp đồng hay chỉ là cam kết đơn phương? Hợp đồng bảo lãnh ngân hàng được ký kết giữa những chủ thể nào? Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng là gì? Tại sao pháp luật lại quy định các quyền và nghĩa vụ như vậy? II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1. Khái quát về hoạt động bảo lãnh ngân hàng: | Khái niệm: Bảo lãnh ngân hàng theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là hành vi của một chủ thể tự nguyện cam kết bảo đảm bằng uy tín hoặc tài sản của mình cho hành động, tư cách hoặc nghĩa vụ của người khác. Pháp luật ngân hàng định nghĩa: Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận (Khoản 18 điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2010). Quy định trong khoản 1 điều 2 quy chế bảo lãnh ngân hàng kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 cũng quy định về bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhân bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. | Đặc điểm: Bảo lãnh ngân hàng có những đặc điểm sau: Ø Về bản chất pháp lý: Bảo lãnh ngân hàng là loại giao dịch thương mại đặc thù. Hoạt động này vừa do chính các tổ chức tín dụng (với tư cách là một loại thương nhân) thực hiện trên thị trường nhằm mục tiêu thu lợi nhuận, vừa có tính chất chuyên môn như một nghề nghiệp kinh doanh. Cũng do tính chất thương mại của hoạt động này mà bắt buộc phải làm thủ tục đăng kí kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Ø Về chủ thể: hoạt động bảo lãnh ngân hàng có loại chủ thể đặc biệt là tổ chức tín dụng (trong đó chủ yếu là các ngân hàng thực hiện). Trong bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng không chỉ có tư cách là người bảo lãnh mà còn có thêm tư cách của nhà kinh doanh ngân hàng. Vì vậy mà quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng không giống hoàn toàn với quyền và nghĩa vụ của người bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự. Ngoài ra hoạt động bảo lãnh ngân hàng còn có những đặc điểm: mục đích và hậu quả của hoạt động là tạo lập 2 hợp đồng là hợp đồng dịch vụ bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh/cam kết bảo lãnh. Đây là giao dịch không được đơn phương hủy ngang bởi những người đại diện có thẩm quyền của tổ chức tín dụng bảo lãnh…. Thứ ba, trong bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng không chỉ có tư cách là người bảo lãnh giống như bất kỳ người bảo lãnh nào trong thực hiện nghĩa vụ dân sự mà còn thêm tư cách nhà kinh doanh ngân hàng. Thứ 4, giao dịch bảo lãnh ngân hàng có mục đích và hệ quả là tạo lập hai hợp đồng, gồm hợp đồng dịch vụ và hợp đồng bảo lãnh/cam kết bảo lãnh. Hai hợp đồng này tuy có mối quan hệ nhân quả với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau nhưng vẫn hoàn toàn độc lập với nhau về cả phương diện chủ thể cũng như quyền, nghĩa vụ pháp lý của các bên. Thứ 5, giao dịch bảo lãnh ngân hàng không phải là giao dịch dân sự hai hay ba bên mà là giao dịch “ kép ”. Thứ 6, theo thông lệ quốc tế, bảo lãnh ngân hàng là giao dịch không thể hủy ngang bởi những người đại diện có thẩm quyền của tổ chức tín dụng bảo lãnh. Thứ 7, bảo lãnh ngân hàng là giao dịch được xác lập và thực hiện dựa trên chứng từ. Thứ 8, bảo lãnh ngân hàng là loại hình bảo lãnh vô điều kiện. | Các loại chủ thể trong bảo lãnh ngân hàng. Trước khi đi tìm hiểu quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng thì phải hiểu các bên trong quan hệ này gồm những “ai” ? Cụ thể: Như chúng ta đã nêu ở trên, nghiệp vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng vốn mang bản chất là hoạt động thương mại nên có cấu trúc pháp lý khá đặc thù, bao gồm sự gắn kết giữa hai loại hợp đồng- hợp đồng bảo lãnh được ký kết giữa bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh và hợp đồng dịch vụ bảo lãnh được ký kết giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Nếu tách riêng hai hợp đồng trên thì có thể nhận thấy hợp đồng bảo lãnh được ký kết giữa bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh không phải bao giời cũng mang đầy đủ giấu hiệu của quan hệ thương mại. Còn hợp đồng dịch vụ bảo lãnh được ký kết giữa bên bảo lãnh với bên được bảo lãnh lại mang bản chất của giao dịch thương mại. Như vậy, giao dịch trong bảo lãnh ngân hàng không thể được coi là giao dịch hai hay ba bên mà là giao dịch “kép”. Trên cơ sở phân tích trên có thể khẳng định rằng các chủ thể tham gia bảo lãnh ngân hàng bao gồm ba chủ thể: Thứ nhất là bên bảo lãnh, thứ hai là bên được bảo lãnh và thứ ba là bên nhận bảo lãnh 2. Phân tích nội dung cơ bản của mỗi quyền, nghĩa vụ của từng chủ thể trong bảo lãnh ngân hàng: ¯ Bên bảo lãnh: Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành, bên bảo lãnh trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là các tổ chức tín dụng có đủ những điều kiện theo luật định. Các tổ chức tín dụng này bao gồm: ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng chính sách, ngân hàng phát triển, ngân hàng hợp tác và một số tổ chức tín dụng khác được Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với khách hàng. Ngoài ra pháp luật còn quy định nếu bên nhận bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng là cá nhân, tổ chức nước ngoài thì bên bảo lãnh chuyên nghiệp chỉ có thể là ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế.Điều kiện của tổ chức tín dụng được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh chuyên nghiệp với khách hàng: Theo quy định tại điều 3 quyết định 26/2006/QĐ-NHNN: “Tổ chức tín dụng  thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh: 1. Các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng. 2. Các ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cho phép hoạt động thanh toán quốc tế được thực hiện các loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân nước ngoài.” Ø Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng bảo lãnh: Trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng không chỉ có tư cách là người bảo lãnh giống như trong bất kỳ người bảo lãnh nào trong bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự mà có thêm tư cách của nhà kinh doanh ngân hàng. Vì thế, việc quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng cũng không giống hoàn toàn với quyền và nghĩa vụ của người bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh dân sự. X Quyền của bên bảo lãnh ( Khoản 1 điều 23 QĐ 26/2006): + Chấp nhận hoặc từ chối đề nghị cấp bảo lãnh của khách hàng hoặc của bên bảo lãnh đối ứng: Quyền năng này được pháp luật quy định nhằm đảm bảo nguyên tắc quyền tự do kinh doanh của tổ chức tín dụng, đồng thời đề cao tính tự chịu trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh trên thị trường. Việc nhận hay không nhận bảo lãnh là xuất phát từ “ý chí” của tổ chức tín dụng mà không có sự can thiệp từ các chủ thể khác. + Đề nghị bên xác nhận bảo lãnh xác nhận bảo lãnh đối với khoản bảo lãnh của mình cho khách hàng: + Yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu, thông tin có liên quan đến việc thẩm định bảo lãnh và tài sản bảo đảm (nếu có). Cơ sở khoa học của quy định quyền năng pháp lý này cho tổ chức tín dụng là nhằm bảo đảm an toàn về phương diện quyền lợi cho tổ chức tín dụng, đồng thời nhằm mục đích đảm bảo sự an toàn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng trong nền kinh tế và nâng cao ý thức trách nhiệm hợp đồng cho bên khách hàng đề nghị bảo lãnh. + Yêu cầu khách hàng có các biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ hoàn trả lại của họ đối với mình: Việc quy định quyền năng này cũng không ngoài mục đích chính yếu là bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng cho tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh. + Thu phí bảo lãnh theo thoả thuận: Quy định này có nghĩa là tổ chức tín dụng khi thực hiện bảo lãnh được quyền yêu cầu khách hàng được bảo lãnh phải thanh toán tiền phí dịch vụ bảo lãnh cho mình theo thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh sau khi đã phát hành thư bảo lãnh và gửi cho bên nhận bảo lãnh. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là vì theo thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh thì tổ chức tín dụng phải phát hành thư bảo lãnh để gửi cho bên nhận bảo lãnh vì quyền lợi của khách hàng được bảo lãnh. Do đó, tổ chức tín dụng (với tư cách là người đã thực hiện công việc dịch vụ) đương nhiên phải có quyền đòi hỏi bên hưởng dịch vụ phải thanh toán cho mình số tiền công dịch vụ là phí bảo lãnh. + Hạch toán ghi nợ và yêu cầu khách hàng hoặc bên bảo lãnh đối ứng hoàn trả số tiền mà bên bảo lãnh đã trả thay. + Xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng theo thoả thuận và quy định của pháp luật + Khởi kiện theo quy định của pháp luật khi khách hàng, bên bảo lãnh đối ứng vi phạm nghĩa vụ đã cam kết + Có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của mình cho tổ chức tín dụng khác nếu được các bên có liên quan chấp thuận bằng văn bản + Quyền kiểm soát việc thực hiện nghĩa vụ của người được bảo lãnh. Sở dĩ pháp luật quy định quyền năng này cho tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh là bởi vì khi cam kết bảo lãnh cho nghĩa vụ tài sản của khách hàng đối với bên có quyền, tổ chức tín dụng bảo lãnh phải đem cả uy tín và tài sản của mình để phục vụ quyền lợi của khách hàng được bảo lãnh nên lẽ công bằng họ có quyền được pháp luật được bảo hộ như đối với chủ nợ. Việc trao quyền kiểm soát đối với khách hàng cho tổ chức tín dụng bảo lãnh chính là phương tiện pháp lý để tổ chức tín dụng tự bảo vệ lợi ích chính đáng của mình khi tham gia quan hệ hợp đồng dịch vụ bảo lãnh; + Quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh: Chúng ta biết rằng mặc dù người bảo lãnh đã cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh nhưng không phải trong mọi trường hợp nghĩa vụ này đều mặc nhiên phải thực thi; do đó, nếu việc đòi tiền của người nhận bảo lãnh là không có cơ sở pháp lý và không phù hợp với các điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh như đã cam kết thì người bảo lãnh có quyền từ chối thực hiện bảo lãnh. X Nghĩa vụ: + Thực hiện  nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh: Nghĩa vụ này bao gồm nghĩa vụ phát hành thư bảo lãnh gửi cho bên nhận bảo lãnh hoặc ký hợp đồng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh và các nghĩa thực hiện các cam kết khác trong dịch vụ bảo lãnh đã ký kết với khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh. Đối với nghĩa vụ phát hành thư bảo lãnh gửi cho bên nhận bảo lãnh hoặc ký hợp đồng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh thì đây là nghĩa vụ cơ bản của người bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh. Nghĩa vụ này có mục tiêu hướng tới việc phục vụ quyền lợi của khách hàng được bảo lãnh . Chỉ khi nào tổ chức tín dụng với tư cách là người cung cấp dịch vụ bảo lãnh đã thực hiện xong nghĩa vụ này thì họ mới có quyền yêu cầu bên hưởng dịch vụ bảo lãnh thanh toán tiền công và phí dịch vụ bảo lãnh. Việc quy định nghĩa vụ này cho người bảo lãnh không chỉ nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của người nhận bảo lãnh mà còn có tác dụng đảm bảo lợi ích của khách hàng được bảo lãnh. Đối với nghĩa vụ thực hiện các cam kết nghĩa vụ khác trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh đã ký kết với khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh. Nghĩa vụ này tuy không phải là nghĩa vụ chính của bên cung ứng dịch vụ nhưng cũng có tác dụng bảo đảm quyền lợi cho khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh và đề cao tính kỷ luật hợp đồng cho các bên tham gia giao dịch + Hoàn trả đầy đủ tài sản bảo đảm (nếu có) và các giấy tờ có liên quan cho khách hàng khi tiến hành thanh lý hợp đồng cấp bảo lãnh. Nghĩa vụ này có mục tiêu hướng tới việc phục vụ quyền lợi của khách hàng được bảo lãnh. Chỉ khi nào tổ chức tín dụng (với tư cách là bên cung cấp dịch vụ bảo lãnh) đã thực hiện xong nghĩa vụ này thì họ mới có quyền được yêu cầu hưởng dịch vụ bảo lãnh thanh toán số tiền công là phí dịch vụ bảo lãnh. + Nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh: Nghĩa vụ thực hiện trả tiền thay cho khách hàng được bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh khi việc đòi tiền của người nhận bảo lãnh phù hợp với các điều kiện thực hiện nghĩa vụ như đã ghi trong cam kết bảo lãnh. Đây là nghĩa vụ cơ bản của người bảo lãnh đối với người nhận bảo lãnh . Việc quy định nghĩa vụ này không chỉ nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho bên nhận bảo lãnh mà còn có tác dụng đảm bảo lợi ích của khách hàng được bảo lãnh. ¯ Bên được bảo lãnh: Nếu trong quan hệ bảo lãnh nói chung, bên được bảo lãnh có thể là mọi tổ chức, cá nhân có yêu cầu bảo lãnh cho các nghĩa vụ tài sản của mình đối với bên có quyền thì trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng nói riêng bên được bảo lãnh thông thường là các chủ thể kinh doanh theo luật định. Trong quy định của pháp luật (điều 4 quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hàng kèm quyết định 26/2006/QĐ-NHNN) những chủ thể là khách hàng được bảo lãnh bởi tổ chức tín dụng bao gồm các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước, trừ các đối tượng: “a. Thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng; b. Cán bộ, nhân viên của tổ chức tín dụng đó thực hiện thẩm định, quyết định bảo lãnh; c. Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc); d. Việc áp dụng quy định tại điểm c Khoản này đối với người được bảo lãnh là bố, mẹ, vợ, chồng, con của Giám đốc, phó Giám đốc chi nhánh của tổ chức tín dụng do tổ chức tín dụng xem xét quyết định.” Những chủ thể này muốn được tổ chức tín dụng xem xét, chấp thuận bảo lãnh phải thỏa mãn những điều kiện theo điều 8 quyết định 26/2006/QĐ-NHNN: “1. Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật; 2. Mục đích đề nghị tổ chức tín dụng bảo lãnh là hợp pháp; 3. Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ được tổ chức tín dụng bảo lãnh trong thời hạn cam kết; 4. Trường hợp khách hàng là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thì ngoài các điều kiện nêu trên phải tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam.” Ngoài việc quy định các điều kiện bảo lãnh trên, vì mục tiêu đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, pháp luật còn quy định giới hạn bảo lãnh với khách hàng: “Tổng số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% (mười lăm phần trăm) vốn tự có của tổ chức tín dụng. Tổng số dư bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài” (quy định tại khoản 1 điều 7 quyết định 26/2006) Sau khi xem xét các điều kiện và giới hạn bảo lãnh trên, việc chấp nhận bảo lãnh hay từ chối bảo lãnh là quyền của các tổ chức tín dụng. Ø Quyền và nghĩa vụ: Trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng, khách hàng chỉ có một tư cách pháp lý là người được hưởng dịch vụ bảo lãnh. Tư cách này phát sinh từ hợp đồng dịch vụ bảo lãnh (hợp đồng cấp bảo lãnh) được kí kết giữa họ với tổ chức tín dụng thực hiện dịch vụ bảo lãnh. Còn xét trong mối quan hệ với các chủ thể của hợp đồng bảo lãnh thì khách hàng được bảo lãnh chỉ đóng vai trò là người thứ ba có liên quan. Có thể nói quyền và nghĩa vụ của bên được bảo lãnh đối ứng với nghĩa vụ và quyền của bên nhận bảo lãnh. Với tư cách là bên hưởng dịch vụ bảo lãnh, khách hàng được bảo lãnh sẽ có các quyền và nghĩa vụ sau: X Quyền của bên được bảo lãnh: ( Điều 26/2006/QĐ-NHNN) + Đề nghị tổ chức tín dụng cấp bảo lãnh cho mình; + Yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện đúng cam kết bảo lãnh và các thoả thuận trong Hợp đồng cấp bảo lãnh; + Khởi kiện theo quy định của pháp luật khi tổ chức tín dụng vi phạm nghĩa vụ đã cam kết; + Có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của mình nếu được các bên có liên quan chấp thuận bằng văn bản. Với việc trao cho bên được bảo lãnh các quyền năng nêu trên, nhà nước đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho bên được bảo lãnh đảm bảo quyền lợi của mình khi tìm đến dịch vụ bảo lãnh ngân hàng X Nghĩa vụ: + Cung cấp đầy đủ, chính xác và trung thực các tài liệu và các thông tin theo yêu cầu của tổ chức tín dụng bảo lãnh; + Thực hiện đầy đủ và đúng hạn nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh; + Thanh toán đầy đủ và đúng hạn phí bảo lãnh cho tổ chức tín dụng theo thoả thuận; + Nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền tổ chức tín dụng đã trả thay, bao gồm cả gốc, lãi và các chi phí  trực tiếp phát sinh từ việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; + Chịu sự kiểm tra, kiểm soát và báo cáo tình hình hoạt động có liên quan đến giao dịch bảo lãnh cho tổ chức tín dụng bảo lãnh. Pháp luật quy định như vậy là bởi vì khi công việc bảo lãnh cho nghĩa vụ tài sản của khách hàng đối với bên có quyền, tổ chức tín dụng phải đem cả uy tín và tài sản của mình để phục vụ quyền lợi của khách hàng được bảo lãnh nên theo lẽ công bằng thì họ có quyền được pháp luật bảo hộ như đối với chủ nợ. việc trao quyền kiểm soát cho tổ chức tín dụng đối với khách hàng chính là trao phương tiện pháp lý để tổ chức tín dụng tự bảo vệ lợi ích chính đáng của mình khi tham gia hợp đồng dịch vụ bảo lãnh ¯ Bên nhận bảo lãnh: Bên nhận bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng là người có quyền thụ hưởng món nợ do người được bảo lãnh thanh toán từ nghĩa vụ trong các hợp đồng hay các nghĩa vụ thanh toán ngoài hợp đồng.Về nguyên tắc, khi tham gia quan hệ bảo lãnh ngân hàng, bên nhận bảo lãnh phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định: Quyền và nghĩa vụ: Trong mối quan hệ hợp đồng bảo lãnh với tổ chức tín dụng bảo lãnh, người nhận bảo lãnh phải chứng minh họ là chủ nợ của khách hàng được bảo lãnh, do đó họ mới có thể thiết lập tư cách là chủ nợ đồng thời của tổ chức bảo lãnh. Chỉ với tư cách đó thì bên nhận bảo lãnh mới có quyền yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ thay người được bảo lãnh khi người này không thực hiện đúng nghĩa vụ của họ đối với mình. Khi thực hiện quyền năng này đối với tổ chức tín dụng bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh phải chứng minh rằng việc đòi tiền của mình là hoàn toàn phù hợp với các điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh như đã được ghi trong cam kết bảo lãnh. Đây vốn là nguyên tắc chung, được thừa nhận từ lâu trong thông lệ và tập quán quốc tế về bảo lãnh ngân hàng. 3. Ý nghĩa của việc quy định các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong bảo lãnh ngân hàng: Hầu hết khi đặt các quan hệ xã hội vào kênh điều chỉnh của mình , pháp luật đều quy định cho các chủ thể trong quan hệ đó các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Đối với quan hệ bảo lãnh ngân hàng cũng không phải là ngoại lệ. Việc pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng tạo ra khung pháp lý cơ bản cho các chủ thể khi thực hiện công việc của mình trong quan hệ đó. Với các quy định như đã phân tích ở trên pháp luật đã chỉ ra cho các chủ thể giới hạn thực hiện các hoạt động của mình, để theo đó các chủ thể có thể nhận thức được quyền lợi mình được hưởng cũng như nghĩa vụ mình phải thực hiện nhằm đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể khác. Cũng qua đó, các chủ thể có công cụ pháp lý đề bảo vệ mình khi có sự vi phạm nghĩa vụ của bên kia. Cụ thể: Như đã trình bày ở phần 1, bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của ngân hàng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng; khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết, khách hàng đã nhận nợ và hoàn trả cho n
Luận văn liên quan