Tính phổ quátcủa nhân quyền để thể hiện khi sự tồn tại của con
người là hiển nhiên, đáng quý trọng, có giá trị cao quý và được công nhận rộng rãi
từ thời xa xưa cho đến nay bởi ngày càng nhiều các quốc gia, lục địa bằng các văn
bản, điều ước song và đa phương. Con người được sinh ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc
nào, với bất kỳ màu da nào cũng có quyền được sống, mưu cầu hạnh phúc, được đối
xử bình đẳng, được có khát vọng về hòa bình, công lý và tựdo, dân chủ. Quyền làm
người là điều sẵn có trong mỗi con người, không thể tách rời, nếu như quyền con
người không được thừa nhận, những yếu tố khác như hòa bình, công lý, dân chủ sẽ
trở thành vô giá trị.
Ngày nay , tínhphổ quát của nhân quyền đã được cụ thể hóa bằng những
hiệp định, công ước, điều ước, hiến chương đặc biệt là bản Tuyên ngôn quốc tế
về nhân quy ền của LHQ được hầu hết các nước trên thế giới chấp thuận ký kết.
Nhận thức được đặc tính này của nhân quyền, các cơ chế bảo vệ nhân
quyền của các nước lần lượt ra đời với thẩm quyền và hiệu quả cao, đảm bảo
quyền con người được bảo vệ chặt chẽ nhất có thể ở mỗi khu vực khác nhau như
châu Âu, châu Mỹ, châu Phi
Hiện nay, ASEAN cũng là một tổ chức, một cộng đồng phối hợp hoạt
động hiệu quả trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, đưa đến việc có một cơ
chế nhân quyền là điều cần thiết để một lần nữa khẳng định sự nhận thức về tính
phổ quát của nhân quyền trên thế giới nói chung và trong khu vực nói riêng.
14 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2437 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích sự cần thiết của cơ chế nhân quyền asean. cơ chế nhân quyền như thế nào là phù hợp với khu vực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
PHÂN TÍCH SỰ CẦN THIẾT CỦA CƠ
CHẾ NHÂN QUYỀN ASEAN.
CƠ CHẾ NHÂN QUYỀN NHƯ THẾ NÀO
LÀ PHÙ HỢP VỚI KHU VỰC.
I. Nguyên nhân của sự cần thiết phải có một cơ chế nhân quyền ASEAN:
1. Xu hướng:
a. Tính phổ quát:
(nhắc lại) Tính phổ quát của nhân quyền để thể hiện khi sự tồn tại của con
người là hiển nhiên, đáng quý trọng, có giá trị cao quý và được công nhận rộng rãi
từ thời xa xưa cho đến nay bởi ngày càng nhiều các quốc gia, lục địa bằng các văn
bản, điều ước song và đa phương. Con người được sinh ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc
nào, với bất kỳ màu da nào cũng có quyền được sống, mưu cầu hạnh phúc, được đối
xử bình đẳng, được có khát vọng về hòa bình, công lý và tự do, dân chủ. Quyền làm
người là điều sẵn có trong mỗi con người, không thể tách rời, nếu như quyền con
người không được thừa nhận, những yếu tố khác như hòa bình, công lý, dân chủ sẽ
trở thành vô giá trị.
Ngày nay, tính phổ quát của nhân quyền đã được cụ thể hóa bằng những
hiệp định, công ước, điều ước, hiến chương … đặc biệt là bản Tuyên ngôn quốc tế
về nhân quyền của LHQ được hầu hết các nước trên thế giới chấp thuận ký kết.
Nhận thức được đặc tính này của nhân quyền, các cơ chế bảo vệ nhân
quyền của các nước lần lượt ra đời với thẩm quyền và hiệu quả cao, đảm bảo
quyền con người được bảo vệ chặt chẽ nhất có thể ở mỗi khu vực khác nhau như
châu Âu, châu Mỹ, châu Phi …
Hiện nay, ASEAN cũng là một tổ chức, một cộng đồng phối hợp hoạt
động hiệu quả trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, đưa đến việc có một cơ
chế nhân quyền là điều cần thiết để một lần nữa khẳng định sự nhận thức về tính
phổ quát của nhân quyền trên thế giới nói chung và trong khu vực nói riêng.
b. Sự hình thành cơ chế các khu vực:
Theo thời gian, nhận thấy sự cần thiết phải bảo vệ quyền con người trong
từng khu vực địa lý cụ thể bởi cơ chế toàn cầu không thể đáp ứng được nhu cầu
được bảo vệ của con người ngày càng mạnh mẽ, bênh cạnh đó, sự khác biệt về địa
lý, tôn giáo, văn hóa của từng khu vực càng khiến cho cơ chế toàn cầu hoạt động
kém hiệu quả, các cơ chế khu vực đã dần hình thành và hoàn thiện dần, bảo đảm
cho quyền con người ở mỗi khu vực được bảo vệ chặt chẽ nhất có thể.
Các cơ chế hiện có bao gồm: cơ chế nhân quyền Châu Âu, Châu Mỹ và
Châu Phi.
Sơ lược về hoạt động của các cơ chế:
- Cơ chế nhân quyền châu Âu: bao gồm Tòa án nhân quyền châu Âu và
Hội đồng bộ trưởng. Tòa án chấp nhận đơn khiếu nại về các hành vi xâm phạm nhân
quyền từ các đối tượng: quốc gia, tổ chức và cá nhân, đồng thời tư vấn các vấn đề có
liên quan. Hội đồng bộ trưởng có chức năng giám sát việc thi hành các phán quyến
của tòa. Từ khi thành lâp cho đến nay, cơ chế nhân quyền châu Âu đã làm việc rất
hiệu quả, giải quyết được rất nhiều vụ việc.
- Cơ chế nhân quyền châu Mỹ: bao gồm Ủy ban đặc trách nhân quyền
châu Mỹ và Tòa án nhân quyền châu Mỹ. Ủy ban có nhiệm vụ tiếp nhận và giám sát
các kiến nghị nhằm cáo buộc một quốc gia thành viên OAS (Tổ chức các nước châu
Mỹ) về lạm dụng nhân quyền. Tòa án có nhiệm vụ thực thi và giải thích các quy định
trong Công ước nhân quyền Châu Mỹ. Tòa án chỉ được tiếp nhận vụ việc sau khi đã
thông qua Công ước, Ủy ban đặc trách đã hoàn thành việc điều tra và vụ việc được
đưa ra tòa bởi chính Ủy ban 3 tháng sau khi UB đưa ra báo cáo. Cá nhân hoặc người
trình kiến nghị không thể độc lập đưa vụ việc ra trước tòa.
- Cơ chế nhân quyền châu Phi: bao gồm Ủy ban nhân quyền châu Phi được
thành lập với 3 chức năng chủ yếu: (1) Bảo vệ nhân quyền và quyền dân tộc (2) Đẩy
mạnh nhân quyền và quyền dân tộc (3) Giải thích hiến chương châu Phi về nhân
quyền và quyền dân tộc. Tòa án nhân quyền châu Phi cũng đã được lập ra, tuy nhiên
cho đến nay vẫn chưa giải quyết được vụ việc nào cụ thể.
1959 1954 1998 1978 1987
Ủy ban nhân
quyền Châu Âu
Ủy ban đặc trách nhân
quyền Châu Mỹ
Tòa nhân quyền Châu Mỹ
Ủy ban châu Phi về con người
và quyền con người
Tòa nhân quyền tách khỏi
Ủy ban nhân quyền châu Âu
trở thành tòa độc lập
Nhìn chung, trong các cơ chế khu vực, có cơ chế hiệu quả cao, có cơ chế hiệu
quả chưa cao, tuy nhiên, so với cơ chế toàn cầu, các cơ chế khu vực đã giải quyết
được một phần lớn vấn đê lạm dụng và vi phạm nhân quyền.
2. Thực trạng chung:
a. Hợp tác toàn cầu:
Quá trình phát triển của luật quốc tế về nhân quyền không thể không kể tới sự
tham gia tích cực và những đóng góp thiết thực của các nước khu vực Đông Nam Á
nói riêng và của tổ chức ASEAN nói chung. Trên tinh thần của Tuyên ngôn Toàn thế
giới về quyền con người của Liên Hợp Quốc ra đời năm 1948, cho đến nay, cộng
đồng quốc tế đã soạn thảo, ban hành và ký kết khoảng 80 công ước, tuyên bố quốc tế
về quyền con người, trong đó có những công ước quan trọng như Công ước về các
quyền dân sự, chính trị; Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước
về chống phân biệt chủng tộc; Công ước chống tra tấn; các công ước về quyền trẻ em,
phụ nữ, người tàn tật, người di cư, các dân tộc thiểu số...Hiện nay, 10 nước ASEAN
đều đã tham gia ký kết một hay một vài các công ước quan trọng của LHQ về quyền
con người. Là một thành viên của LHQ, Việt Nam tham gia tích cực vào việc ký kết,
phê chuẩn và thực hiện nghĩa vụ bảo đảm quyền con người, là một trong số nhỏ các
nước tham gia 8/9 công ước cơ bản về quyền con người của LHQ. Việt Nam cũng đã
được bầu là thành viên của Ủy ban nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2001 - 2003. Những
biểu hiện này cho thấy mức độ hợp tác sâu sắc của các nước Đông Nam Á, mà đại
diện tiêu biểu là Việt Nam, trong nỗ lực đưa luật nhân quyền quốc tế phát triển mạnh
mẽ trong cộng đồng thế giới. Các nước ASEAN tìm thấy tiếng nói chung với cơ chế
nhân quyền toàn cầu được hình thành và phát triển trong suốt hơn 60 năm qua và luôn
khẳng định quan điểm không đứng ngoài lề với những nỗ lực của nhân loại trong việc
khuyến khích và định hướng thúc đẩy các quyền con người trên phạm vi toàn thế giới.
b. Hợp tác nội khối:
Sau hơn 40 năm thành lập và phát triển, ASEAN ngày một lớn mạnh, trở
thành một tổ chức khu vực có uy tín và có sự hợp tác cao độ trên nhiều lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đạt được sự đồng thuận, thống nhất từ nội bộ khối là
động lực chủ yếu giúp ASEAN ngày càng mạnh hơn và nâng cao tầm ảnh hưởng của
mình với các khu vực khác. Hợp tác về nhân quyền không là ngoại lệ trong bước phát
triển của ASEAN và hiện nay dân chủ, nhân quyền – một trong những vấn đề khá
nhạy cảm – đã trở thành chủ đề quan trọng được đưa vào các chương trình nghị sự
của ASEAN. Khác với nhiều năm về trước, thời gian gần đây, các nước ASEAN đã
thẳng thắn đối thoại ở cấp độ đa phương về các vấn đề nhân quyền xảy ra trong khu
vực, thẳng thắn lên tiếng với các biểu hiện được cho là hạn chế nhân quyền như vụ
việc bắt giữ những người hoạt động dân chủ ở Myanmar hay việc nhà nước Myanmar
thực hiện chính sách cấm hàng cứu trợ của nước ngoài cho nạn nhân bão Nargis vì
chính những bất ổn chính trị của nước này. Ngay sau khi thông qua Hiến chương
ASEAN với một phần quan trọng là điều 14 nói đến việc thành lập Ủy ban phụ trách
về Nhân quyền ASEAN, Hàng loạt các hội nghị cấp cao ASEAN đã được tiến hành
để 10 quốc gia bàn thảo và sớm thành lập Ủy ban vào tháng 10/2009. Đứng trước
những lời chỉ trích cho rằng ASEAN không có thái độ kiên quyết đối với những thành
viên bị cộng đồng quốc tế chỉ trích về nhân quyền, Ủy ban phụ trách về Nhân quyền
của ASEAN ra đời sẽ là biểu hiện rõ ràng nhất nói lên sự quan tâm của chính phủ các
nước ASEAN trong vấn đề nhân quyền, là thái độ sẵn sàng thực hiện công khai hóa
tình hình nhân quyền của quốc gia, của khu vực với cộng đồng thế giới.
Hơn nữa, sự ra đời của một Ủy ban phụ trách về nhân quyền ASEAN hay rộng
hơn là một cơ chế nhân quyền ASEAN không chỉ nhằm mục đích là cổ vũ nền dân
chủ cho khu vực, không chỉ mang tính chất tuyên truyền, khuyến khích các quốc gia
tăng cường, đẩy mạnh những hoạt động nhân quyền trong nước mà còn là một
phương thức hữu hiệu nâng cao mức độ hợp tác toàn diện, thống nhất trong toàn khối,
tránh những can thiệp bên ngoài và hạn chế những áp lực từ các nước dân chủ phát
triển khác. Tiếng nói của một quốc gia sẽ hòa cùng tiếng nói của khu vực để mang sức
nặng hơn. Trong trường hợp nghị viện Mỹ có những động thái can thiệp vào tình hình
chính trị Việt Nam, như đưa Việt Nam vào danh sách CPC (danh sách các nước cần
đặc biệt quan tâm về vấn đề nhân quyền) thì các quốc gia còn lại trong Ủy ban nhân
quyền ASEAN sẽ có những phản hồi thiết thực bảo vệ lập trường, quan điểm của
quốc gia hiện nằm trong “tầm ngắm” của Mỹ.
Trong sự đánh giá của cộng đồng thế giới, ASEAN là một trong những khu
vực xuất hiện nhiều điểm nóng nhân quyền khi gần đây có nhiều biểu hiện của sự
giảm sút quyền con người như tình hình bất ổn chính trị, tôn giáo ở Myanmar, Thái
Lan, Việt Nam với các vụ bắt giữ những người hoạt động dân chủ dân quyền; ngăn
cấm hoạt động tự do của các website, đường truyền Internet; đàn áp một số vụ bạo
động của giáo dân, hay tình trạng yếu kém của các dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe
cho người dân, nạn bạo hành trẻ em, phụ nữ; tệ tham nhũng, mại dâm, AIDS…Đó là
những vấn đề xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan của các nước
ASEAN nhưng lại bị sự chỉ trích khá gay gắt từ cộng đồng quốc tế. Nếu như có một
Ủy ban phụ trách về vấn đề nhân quyền, các quốc gia ASEAN sẽ có cơ hội đẩy mạnh
hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau để tăng cường những biện pháp thúc đẩy tình hình nhân
quyền của nước mình, không những phát huy được sức mạnh nội lực mà còn tranh thủ
được sự ủng hộ của láng giềng thân thiện. Sự ra đời của Ủy ban Nhân quyền sẽ là một
bước tiến đáng mừng của ASEAN trong lộ trình đi lên phát triển ngày một văn minh
hơn, hướng về con người hơn.
c. Nhân quyền tại quốc gia:
Sẵn sàng tham gia vào cơ chế nhân quyền ASEAN không chỉ biếu hiện ở việc
quốc gia thành viên tích cực tham gia vào cơ chế nhân quyền toàn cầu hay khu vực
mà còn phải thể hiện qua việc quốc gia đó hoàn thiện bộ máy pháp luật và cải thiện
những chính sách phát triển kinh tế xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của mình,
đem lại lợi ích cho người dân, đảm bảo đầy đủ quyền con người. Đây là việc mà phần
lớn các quốc gia ASEAN đã và đang làm được. Đơn cử Việt Nam, Hiến pháp Việt
Nam sửa đổi năm 1992, điều 50 ghi rõ: "Ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn
trọng, thể hiện ở các quy định trong Hiến pháp và Luật"1. Trong thời gian qua, các
quyền con người ở Việt Nam đã được bảo đảm tốt hơn cả về pháp lý, nội dung và
điều kiện thực hiện. Trên lĩnh vực này, Việt Nam đã tích cực bổ sung, sửa đổi, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, bao gồm các bộ luật, luật và các văn bản pháp quy khác theo
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân vì
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Ðến nay, một
khối lượng đồ sộ hơn 13 nghìn văn bản pháp luật các loại khác nhau được ban hành,
trong đó có hơn 58 bộ luật và luật quan trọng như Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng
Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Bầu cử Quốc
hội, Luật Giáo dục, Luật Chăm sóc sức khỏe, Luật Bình đẳng giới..., hơn 120 pháp
lệnh, hơn 4.000 các quy định của chính phủ và các cơ quan thuộc chính phủ... Trong
các văn bản pháp luật đó, các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa trong
các công ước cơ bản về quyền con người được nội luật hóa khá đầy đủ. Như vậy,
không ngừng cải thiện pháp luật trong nước cho phù hợp với thực tiễn, có những hành
1Báo Nhân Dân, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người với Việt Nam, cập nhật 09-12-2008
động thiết thực nâng cao quyền công dân trong nội bộ quốc gia là biểu hiện cho thấy
thái độ tích cực của quốc gia đó với vấn đề quyền con người, thiện chí cam kết đóng
góp sức lực của mình vào tiến trình xây dựng một cơ chế nhân quyền khu vực. Nhiệm
vụ căn bản của các nước thành viên trong giai đoạn tới là làm sao xây dựng được một
cơ chế hoạt động hiệu quả dựa trên sự thống nhất quan điểm, dung hòa những khác
biệt về luật pháp, chính trị, kinh tế, xã hội, vì một mục tiêu chung là tạo ra một môi
trường ASEAN ổn định, vững mạnh, hướng tới quyền lợi của cộng đồng dân cư và
của loài người.
3. Thời điểm chín muồi:
Nhân quyền là một khái niệm có nội hàm rộng dẫn đến nhiều quan điểm
khác nhau về vấn đề này. Nó là một giá trị chung mà cả thế giới đều muốn đạt đến.
Nhưng ý thức nhân quyền và việc thực hiện nhân quyền là một quá trình lịch sử lâu
dài dưới sự chi phối của yếu tố văn hoá chính trị của từng khu vực. Đối với khu vực
Đông Nam Á, một khu vực mới với 10 quốc gia có chế độ kinh tế, chính trị và văn
hoá đa dạng thì “nhân quyền” dường như là một cụm từ ít được các nước nhắc đến
trong các hoạt động của khu vực. Tuy nhiên, đứng trước xu hướng hợp tác khu vực
cũng như quốc tế về nhân quyền cộng với tình hình nhân quyền trong khu vực ngày
càng có những biến động khó lường thì nhận thức của các nhà lãnh đạo trong khu vực
về khu vực đã có nhiều biến chuyển.
Ngay sau khi trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc, đa số các nước
trong khu vực đã nhanh chóng ký kết và phê chuẩn hầu hết các công ước quốc tế quan
trọng về quyền con người, trong đó có hai công ước bao quát đầy đủ các quyền và tự
do cơ bản của con người, đó là Công ước quốc tế về các quyền Dân sự, Chính trị
1966; Công ước quốc tế, về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hoá, 1966. Hầu hết các
nước đã nội luật hoá các công ước đó vào hệ thống pháp luật quốc gia. Riêng đối với
Việt Nam, theo thống kê, từ 1986 đến nay, Quốc hội đã thông qua 58 Luật, 43 Pháp
lệnh, trong đó có những bộ luật lớn trực tiếp bảo đảm các quyền con người như: Bộ
luật Hình sự, Bộ Luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ Luật Lao động, Luật Chăm
sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em… Việt Nam cùng với nhiều nước trong khu vực hàng
năm đều thực hiện tốt nghĩa vụ báo cáo tình hình nhân quyền lên Hội đồng nhân
quyền Liên Hợp Quốc. Đặc biệt, Singapore là một nước trong khu vực được thế giới
và các nước trong khu vực đánh giá cao về ý thức nhân quyền và thực hiện những
nhân quyền. Những dấu hiệu trên cho thấy sự sẵn sàng hợp tác quốc tế về nhân quyền
các nước ASEAN. Mặc dù vậy, với sự khác biệt về kinh tế, chính trị và văn hoá cùng
với nguyên tắc “không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau” thì trong suốt 40
năm kề từ ngày thành lập ASEAN vẫn chưa có một cơ chế nhân quyền của riêng khu
vưc. Trong Tuyên bố thành lập Hiệp hội các nước Đông Nam Á năm 1967 tại Băng
Cốc, Thái Lan thì nhân quyền chưa phải mối quan tâm chính của tổ chức này mà mục
đích chính của nó là hợp tác trên lĩnh vực an ninh, kinh tế và chính trị. Chính vì thế,
nhân quyền là một khía cạnh thuộc công việc nội bộ của các nước trong khu vực và
thường xuyên có sự can thiệp của các thế lực bên ngoài. Mặc dù các Hiệp định về hợp
tác kinh tế, an ninh chính trị trong khu vực lần lượt ra đời nhưng nhân quyền là vẫn là
một vấn đề mà các nước đều không muốn đề cập đến. Chỉ đến khi Hiến chương
ASEAN được thông qua vào tháng 11 năm 2007 thì “nhân quyền” mới lần đầu tiên
chính thức được tổ chức nhắc đến trong suốt 40 năm hoạt động của mình. Bản Hiến
Chương đã được các nước thông qua với hẳn một điều khoản quy định về việc thành
lập cơ quan nhân quyền Đông Nam Á.
Điều 14: Cơ quan nhân quyền ASEAN
1. Phù hợp với các mục tiêu và nguyên tắc của Hiến chương ASEAN về thúc đẩy và
bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản, ASEAN sẽ lập một cơ quan nhân
quyền ASEAN
2. Cơ quan nhân quyền ASEAN này sẽ hoạt động theo Quy chế do Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN quyết định.
Với quy định này, ASEAN đã tiến một bước quan trọng trong tiến trình
hợp tác nhân quyền trong khu vực. Vượt qua các rào cản về sự khác biệt kinh tế, văn
hoá, chính trị cũng như lợi ích quốc gia, 10 nước thành viên đã có những nhượng bộ
cần thiết nhằm đạt được sự đồng thuận chung về một vấn đề vốn được xem là khá
nhạy cảm trong khu vực. Trên cơ sở đó, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN
lần thứ 42 (19-20/2009), các Ngoại trưởng đã thông qua điều khoản quy chiếu cho cơ
quan này và thống nhất lấy tên gọi là Uỷ ban liên chính phủ về nhân quyền của
ASEAN. Đây là cơ quan nhân quyền đầu tiên tại Châu Á. Nó được coi là sự khởi đầu
cho tiến trình hợp tác nhân quyền tại khu vực. Mặc dù các quy định về cơ quan này
chỉ đạt được sự đồng thuận ở mức tối thiểu nhưng điều đó cho thấy sự đồng lòng
quyết tâm cũng như sẵn sàng của các nước ASEAN trong việc thúc đẩy và bảo vệ
nhân quyền tại khu vực.
Như vây, có thể thấy với điều 14 tại Hiến chương ASEAN cũng như sự thành
lập Uỷ ban Liên chính phủ ASEAN thì đây là chính thời điểm thích hợp cho ASEAN
thực hiện tiến trình hợp tác nhân quyền khu vực trên bình diện sâu và rộng hơn nữa.
Uỷ ban liên chính phủ về nhân quyền sẽ là tiền đề để ASEAN ngày dần hoàn thiện và
củng cố cơ chế nhân quyền của mình.
4. Vai trò của việc thành lập cơ chế:
- Thúc đẩy bảo vệ quyền con người ở ASEAN.
Việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền có liên quan chặt chẽ với nhau. Thúc
đẩy nhân quyền cũng đồng thời cải thiện việc bảo vệ nhân quyền. Khi mọi người
hiểu biết hơn về các quyền và tự do cơ bản, họ sẽ biết cách để sử dụng chúng một
cách tích cực. Các quyền và tự do cơ bản trong ASEAN luôn đi cùng với các
nghĩa vụ và trách nhiệm.
Việc thành lập cơ chế nhân quyền sẽ góp phần củng cố việc xây dựng nên
Cộng đồng ASEAN… Dân chủ và nhân quyền là hai nguyên tắc cơ bản trong
Hiến chương và bây giờ các quốc gia ASEAN đang tiến hành các biện pháp để thi
hành các nguyên tắc trên cho người dân của khu vực.
Bám sát vào 5 mục đích chính của Ủy ban Liên chính phủ về nhân quyền
ASEAN (Thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, các quyền tự do cơ bản của người dân
ASEAN; Bảo vệ quyền được sống trong hòa bình, phẩm giá, và thịnh vượng của
người dân ASEAN; Đóng góp vào việc hiện thực hóa các mục tiêu của ASEAN
được trình bày trong bản Hiến chương ASEAN, nhằm thúc đẩy sự ổn định và hài
hòa trong khu vực, tình hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia thành viên của
ASEAN, cũng như sự phồn vinh, sinh kế, thịnh vượng và sự tham dự của người
dân ASEAN trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN), mục đích đầu tiên và
quan trọng nhất của việc thành lập cơ chế nhân quyền ở ASEAN là thúc đẩy bảo
vệ quyền con người.
Khi cơ chế nhân quyền được thành lập, việc thúc đẩy bảo vệ quyền con
người ở ASEAN sẽ được thực hiện bằng sự tự nguyện cam kết của các quốc gia
với những trách nhiệm, nghĩa vụ cụ thể hơn, sẽ có thêm những nguồn luật, những
quy định mới của ASEAN về quyền con người để trở thành nguồn thông tin, giáo
dục về quyền con người, có cơ chế điều tra, xét xử, giám sát việc thực hiện quyền
con người…
- Đưa ASEAN vào xu thế chung của phong trào bảo vệ nhân quyền trên
thế giới.
Bất chấp sự khác biệt về chính trị, xã hội và văn hóa giữa các nước
ASEAN, cả 10 nước thành viên đều tôn trọng triệt để định nghĩa về nhân quyền
của Liên Hợp Quốc.
Đây chính là cơ sở để ASEAN hoà nhập vào xu thế chung của phong trào
bảo vệ nhân quyền trên thế giới.
Khi tất cả các châu lục khác đều đã có cơ chế nhân quyền của riêng mình,
châu Á thì khó hy vọng đi đến một cơ chế chung về vấn đề này, việc ASEAN tự
thành lập một cơ chế của riêng mình mang ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là sự
chủ động hội nhập vào xu thế chung của thế giới.
Tuy sinh sau đẻ muộn và bị buộc chặt vào nhiệm vụ cổ vũ, giáo dục,
nhưng cơ chế Nhân quyền của khu vực Đông Nam Á, một khi tồn tại, có khả năng
được cải thiện để đáp ứng với nguyện vọng của người dân. Cũng như mọi cơ chế
khác của ASEAN, các nhà quan sát lạc quan đánh giá, việc này đánh dấu một tiến
trình đã được khởi động. Đây là một bước lịch sử cho Nhân quyền trong khu vực.
Vai trò của cơ quan trong chặng đường sắp tới sẽ mang tính quyết định.