1. Lí do chọn đề tài:
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cũng đồng nghĩa là Việt Nam bắt đầu bước vào sân chơi chung của thị trường thương mại thế giới theo luật chơi chung dành cho tất cả các thành viên của tổ chức này và từng bước thực hiện việc hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp. Ngành nông lâm nghiệp có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam ở mọi giai đoạn phát triển. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay với khoảng 70% dân số sản xuất nông lâm nghiệp. Một trong những thế mạnh không thể không kể tới là ngành lúa gạo – mặt hàng xuất khẩu đứng thứ hai thế giới. Gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội và những thuận lợi do khách quan mang đến nhưng cũng sẽ gặp không ít khó khăn và thách thức trong việc phát triển đất nước nói chung và phát triển ngành lúa gạo nói riêng.
Chính vì vậy, em chọn đề tài “phân tích thực trạng ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam sau khi gia nhập WTO” từ đó đề xuất những giải pháp phát triển ngành sản xuất lúa gạo trong môi trường hội nhập.
2.Mục tiêu nghiên cứu:
2.1.Mục tiêu chung :
Phân tích thực trạng ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành thành viên chính thức của Tổ Chức Thương mại thế giới WTO từ đó đề xuất những giải pháp phát triển ngành sản xuất lúa gạo trong môi trường hội nhập.
2.2.Mục tiêu cụ thể :
- Phân tích tình hình sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam trước khi gia nhập và sau khi gia nhập WTO.
- Phân tích những thuận lợi và cơ hội, những khó khăn và thách thức đối với ngành sản xuất lúa gạo.
- Đề xuất các giải pháp phát triển ngành sản xuất lúa gạo trong môi trường hội nhập.
4.Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu thứ cấp trên các báo, tạp chí chuyên ngành kinh tế, trên các báo điện tử và các tài liệu có liên quan đến tình hình sản xuất gạo ở Việt Nam.
b. Phương pháp phân tích số liệu: chủ yếu là phương pháp phân tích và so sánh.
5.Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Nghiên cứu trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam.
Thời gian: Số liệu liên quan chủ yếu lấy từ năm 1990 đến năm 2007.
Đối tượng nghiên cứu: tình hình sản xuất gạo Việt Nam.
33 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7192 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cũng đồng nghĩa là Việt Nam bắt đầu bước vào sân chơi chung của thị trường thương mại thế giới theo luật chơi chung dành cho tất cả các thành viên của tổ chức này và từng bước thực hiện việc hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp. Ngành nông lâm nghiệp có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam ở mọi giai đoạn phát triển. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay với khoảng 70% dân số sản xuất nông lâm nghiệp. Một trong những thế mạnh không thể không kể tới là ngành lúa gạo – mặt hàng xuất khẩu đứng thứ hai thế giới. Gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội và những thuận lợi do khách quan mang đến nhưng cũng sẽ gặp không ít khó khăn và thách thức trong việc phát triển đất nước nói chung và phát triển ngành lúa gạo nói riêng.
Chính vì vậy, em chọn đề tài “phân tích thực trạng ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam sau khi gia nhập WTO” từ đó đề xuất những giải pháp phát triển ngành sản xuất lúa gạo trong môi trường hội nhập.
2.Mục tiêu nghiên cứu:
2.1.Mục tiêu chung :
Phân tích thực trạng ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam sau khi trở thành thành viên chính thức của Tổ Chức Thương mại thế giới WTO từ đó đề xuất những giải pháp phát triển ngành sản xuất lúa gạo trong môi trường hội nhập.
2.2.Mục tiêu cụ thể :
- Phân tích tình hình sản xuất và xuất khẩu lúa gạo Việt Nam trước khi gia nhập và sau khi gia nhập WTO.
- Phân tích những thuận lợi và cơ hội, những khó khăn và thách thức đối với ngành sản xuất lúa gạo.
- Đề xuất các giải pháp phát triển ngành sản xuất lúa gạo trong môi trường hội nhập.
4.Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu thứ cấp trên các báo, tạp chí chuyên ngành kinh tế, trên các báo điện tử và các tài liệu có liên quan đến tình hình sản xuất gạo ở Việt Nam.
b. Phương pháp phân tích số liệu: chủ yếu là phương pháp phân tích và so sánh.
5.Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Nghiên cứu trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam.
Thời gian: Số liệu liên quan chủ yếu lấy từ năm 1990 đến năm 2007.
Đối tượng nghiên cứu: tình hình sản xuất gạo Việt Nam.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Vài nét về WTO:
1.1.1. Khái niệm WTO :
WTO là tên viết tắt từ tiếng Anh của Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization). WTO được thành lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15-4-1994. WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1-1-1995.
WTO ra đời trên cơ sở kế tục tổ chức tiền thân là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại ( The General Agreement on Tariffs and Trade - GATT). Đây là tổ chức quốc tế duy nhất đề ra những nguyên tắc thương mại giữa các quốc gia trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được các nước đàm phán và ký kết.
Có thể hình dung một cách đơn giản về WTO như sau :
WTO là nơi đề ra những quy định:
Ðể điều tiết hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên quy mô toàn thế giới hoặc gần như toàn thế giới.
WTO là một diễn đàn để các nước, các thành viên đàm phán:
Người ta thường nói, bản thân sự ra đời của WTO là kết quả của các cuộc đàm phán. Sau khi ra đời, WTO đang tiếp tục tổ chức các cuộc đàm phán mới. "Tất cả những gì tổ chức này làm được đều thông qua con đường đàm phán". Có thể nói, WTO chính là một diễn đàn để các quốc gia, các thành viên tiến hành thoả thuận, thương lượng, nhân nhượng nhau về các vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ..., để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên.
WTO gồm những quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế:
Ra đời với kết quả được ghi nhận trong hơn 26.000 trang văn bản pháp lý, WTO tạo ra một hệ thống pháp lý chung làm căn cứ để mỗi thành viên hoạch định và thực thi chính sách nhằm mở rộng thương mại, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân các nước thành viên. Các văn bản pháp lý này bản chất là các "hợp đồng", theo đó các chính phủ các nước tham gia ký kết, công nhận (thông qua việc gia nhập và trở thành thành viên của WTO) cam kết duy trì chính sách thương mại trong khuôn khổ những vấn đề đã thoả thuận. Tuy là do các chính phủ ký kết nhưng thực chất mục tiêu của những thoả thuận này là để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ, các nhà xuất nhập khẩu thực hiện hoạt động kinh doanh, buôn bán của mình.
WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp:
Nếu "mục tiêu kinh tế" của WTO là nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại hàng hoá, dịch vụ, trao đổi các sáng chế, kiểu dáng, phát minh...(gọi chung là quyền tài sản sở hữu trí tuệ) thì các hoạt động của WTO nhằm giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên theo các quy định đã thoả thuận, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế và luật lệ của WTO chính là ?mục tiêu chính trị? của WTO. Mục tiêu cuối cùng của các mục tiêu kinh tế và chính trị nêu trên là nhằm tới "mục tiêu xã hội" của WTO là nhằm nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.
1.1.2.Mục tiêu của WTO :
Hình dung đơn giản về WTO như nêu trên cũng chính là nội dung của các mục tiêu của WTO như được ghi nhận tại Lời mở đầu của Hiệp định thành lập WTO. "Các bên ký kết Hiệp định này thừa nhận rằng: Tất cả những mối quan hệ của họ (tức các bên ký kết thành lập ra WTO) trong lĩnh vực kinh tế và thương mại phải được thực hiện với mục tiêu nâng cao mức sống, bảo đảm đầy đủ việc làm và một khối lượng thu nhập và nhu cầu thực tế lớn và phát triển ổn định; mở rộng sản xuất, thương mại hàng hoá và dịch vụ, trong khi đó vẫn đảm bảo việc sử dụng tối ưu nguồn lực của thế giới theo đúng mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ và duy trì môi trường và nâng cao các biện pháp để thực hiện điều đó theo cách thức phù hợp với những nhu cầu và mối quan tâm riêng rẽ của mỗi bên ở các cấp độ phát triển kinh tế khác nhau.
(Các bên ký kết Hiệp định) thừa nhận thêm rằng: cần phải có nỗ lực tích cực để bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia kém phát triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của quốc gia đó;
(Các bên ký kết Hiệp định) mong muốn đóng góp vào những mục tiêu này bằng cách tham gia vào những thoả thuân tương hỗ và cùng có lợi theo hướng giảm đáng kể thuế và các hàng rào cản trở thương mại khác và theo hướng loại bỏ sự phân biện đối xử trong các mối quan hệ thương mại quốc tế; Do đó, (Các bên ký kết Hiệp định), quyết tâm xây dựng một cơ chế thương mại đa biên chặt chẽ, ổn định và khả thi hơn; quyết tâm duy trì những nguyên tắc cơ bản và tiếp tục theo đuổi những mục tiêu đang đặt ra cho cơ chế thương mại đa biên này.
1.2. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam có ảnh hưởng sản xuất lúa gạo :
1.2.1. Tài nguyên khí hậu :
Việt Nam nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu. Việt Nam có khi hậu nhiệt đới, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Nam châu Á, với đặc trưng nắng, nóng, ẩm. Trong năm có hai mùa gió tác động: gió Đông Bắc về mùa Đông gây ra rét khô lạnh và gió Đông Nam về mùa hè gây ra nóng, ẩm. Việt Nam quanh năm nhận được lượng nhiệt rát lớn của mặt trời, số giờ nắng trung bình trong năm là 2000 mm, năm cao nhất lên tới trên 3000 mm, năm thấp nhất vào khoảng 1600-1800 mm.
Lượng mưa phân bố không đều theo thời gian và không gian : nơi có lượng mưa cao nhất là vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh và Đà Nẵng(khoảng 3200mm/năm) và nơi thấp nhất là Phan Rang (650-700 mm/năm) theo thời gian thì lượng mưa tập trung chủ yếu vào các tháng trong mùa hè chiếm tời 80% lượng mưa cả năm. Mưa thường tập trung trong giai đoạn từ tháng 6 đến tháng 10 hay tháng 11 trong năm. Tại đồng bằng sông Cửu Long do tác động của gió mùa, nên mùa mưa kéo dài từ 5 đến 6 tháng với lượng mưa trung bình trên 200 mm/tháng. Tháng 10 thường là tháng mưa nhiều nhất trong năm. Sự khác biệt giữa miền Nam và miền Bắc về điều kiện thời tiết khí hậu khiến cho các hệ thống nông nghiệp ở các vùng cũng rất đa dạng.
Độ ẩm không khí cao, dao động trong khoảng 80% và thay đổi theo vùng, theo mùa trong năm. Nhiệt độ bình quân trong năm luôn trên 200C, cao nhất vào tháng 6, tháng 7 (khoảng 35-360C cũng có năm lên tới 38-390C) và thấp nhất vào cuối tháng 12, tháng 1 (nhiệt độ dưới 150C, cũng có năm nhiệt độ xuống dưới 100C). Tuy nhiệt độ bình quân chung như vậy nhưng nó cũng khác nhau theo địa hình, theo vùng của đất nước, cụ thể là nhiệt độ đó tăng dần từ cao xuống thấp, từ Bắc vào Nam.
Điều kiện khí hậu thời tiết nước ta như vậy đã tạo nhiều sự thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế quốc dân, đặc biệt đối với nông nghiệp nó là cơ sở để ta phát triển một nền nông nghiệp toàn diện trong đó có ngành sản xuất lúa gạo. Tuy nhiên cũng chính điều kiện khí hậu đó cũng gây không ít khó khăn trong sản xuất; hàng năm thường xảy ra lũ lụt, bão quét về mùa mưa, hạn hán về mùa khô gây ra biết bao khó khăn thiệt hại cho sản xuất và đời sống của nhân dân ta. Mặc khác, khí hậu nóng ẩm cũng là điều kiện thuận lợi cho sâu, bệnh, dịch hại vật nuôi và cây trồng phát sinh và phát triển, gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp ở nước ta.
1.2.2. Tài nguyên đất :
Nói chung, mọi hoạt động kinh tế - xã hội rất cần đất, song riêng trong nông nghiệp thì đất đai là loại tư kiệu sản xuất đặt biệt và không thể thiếu, không thể thay thế được.
Đất đai nước ta rất đa dạng: nằm trong vành đai Bắc bán cầu với vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa các quá trình trao đổi chất diễn ra mạnh mẽ, đó là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Đất có giá trị cao nhất trong trong lúa là đất phù sa. Loại đất này phân bố chủ yếu ở Bắc Bộ và Nam Bộ.
Ngoài các loại đất tốt, trong tổng diện tích tự nhiên của nước ta có tới 2/3 diện tích là đồi núi, đất dốc, cộng chế độ canh tác cũ lạc hậu để lại, lượng mưa hàng năm lớn, cho nên hiện nay có tới 20% diện tích tự nhiên bị xấu đi do bi xói mòn, rửa trôi gây ra nhiễm phèn, nhiễm mặn và sa mạc hoá đang tồn tại ở vùng ven biển miền Trung và một số vùng khác, đó là những khó khăn lớn đối với ngành sản xuất lúa gạo nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung.
1.2.3. Tài nguyên nước :
Nguồn nước mặt của nước ta khá phong phú, với hệ thống sông ngòi, kênh rạch khá dày đặc và được phân bối tương đối đồng đều trong cả nước, trong đó, đại diện cho ba miền Bắc, Trung, Nam có ba con sông lớn, đó là sông Hồng, sông Cả và sông Cửu Long. Lượng nước trên các con sông phụ thuộc chủ yếu vào lượng nước mưa theo mùa. Hàng năm các con sông của nước ta đổ ra biển tới 900 tỉ m3 nước. Đặc điểm sông ngòi Việt Nam có rất nhiều thuận lợi đối với sản xuất và đời sống : chất lượng nước tốt, hàm lượng phù sa cao, khoáng hoá thấp và ít biến đổi, độ pH trung bình (7,2 – 8). Nhưng bân cạnh đó do lượng mưa hàng năm lớn lại phân bố không đều trong năm, sông ngòi dày đặc nhưng lòng sông hẹp và dốc… cũng đã gây ra không ít khó khăn trong sản xuất và đời sống.
1.3. Các loại giống lúa
Việt Nam trồng khá nhiều loại giống lúa khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện của từng vùng sinh thái và từng mùa vụ. Các tỉnh phía Bắc sử dụng nhiều loại giống lúa nhập từ Trung Quốc (chủ yếu là do khả năng thích ứng của các giống lúa Trung Quốc với điều kiện đất đai khí hậu của miền Bắc), trong khi đó các tỉnh phía Nam lại trồng nhiều giống lúa IR có nguồn gốc từ Viện lúa quốc tế (IRRI). Mặc dù có hàng 100 giống lúa khác nhau, nhưng chỉ có 10 giống lúa được trồng phổ biến nhất, chiếm tới 60% tổng diện tích gieo trồng lúa cả nước. Trong số các giống lúa còn lại, mỗi giống chỉ chiếm không quá 1% tổng diện tích gieo trồng. Theo điều tra của Bộ Nông nghiệp & PTNT năm 2000, cả nước mỗi vụ trồng trên 200 giống lúa khác nhau. Tuy nhiên số lượng giống lúa được trồng ở từng vùng và từng vụ có khác nhau. Vụ Đông-Xuân ở miền Trung có số lượng giống lúa ít nhất, nhưng cũng đã là 131 giống lúa khác nhau.
Các tỉnh phía Bắc chủ yếu trồng các giống lúa lai và lúa thuần Trung Quốc (khoảng 60% diện tích). Khang Dân 18 and Q5 là hai giống lúa trồng tương đối phổ biến trong vụ Đông-Xuân (15 và 12%) và vụ Mùa (18 và 14%).
Đối với nông dân miền Trung, giống lúa IR có vị trí quan trọng hơn. Hai giống lúa được trồng nhiều nhất là IR17494 và Khang Dân 18 chiếm 21% và 13% trong vụ Đông-Xuân và khoảng 12% và 8% trong vụ Hè-Thu.
IR50404 và OM1490 là hai giống lúa được trồng nhiều nhất ở các tỉnh phía Nam, chiếm khoảng 13% trong vụ Đông-Xuân và 10-13% trong vụ Hè-Thu. Mặc dù giống IR64 là giống lúa chính phục vụ cho xuất khẩu nhưng chỉ chiếm 5-6% diện tích gieo trồng trong vụ Đông-Xuân và Hè Thu ở miền Nam.
1.4. Các kênh tiêu thụ và phân phối lúa gạo
Hệ thống tiêu thụ lúa gạo ở Việt Nam khá phức tạp thông qua nhiều mắt xích liên hệ giữa các đối tác khác nhau: nông dân sản xuất lúa, người thu gom lúa, cơ sở xay xát, người bán buôn, người bán lẻ và các công ty quốc doanh lương thực. Ngoài ra, công ty lương thực quốc doanh còn phân thành 2 loại: TW (VINAFOOD I ở miền Bắc và VINAFOOD II ở miền Nam) và Địa phương. Hệ thống các kênh tiêu thụ có thể được mô tả khái quát bằng sơ đồ dưới đây. (Xem sơ đồ 1).
Nguồn: FAO, 2000, Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của ngành Nông nghiệp Việt Nam
Ghi chú: DNQD - Doanh nghiệp quốc doanh; HĐXK - Hợp đồng xuất khẩu
Kênh tiêu thụ gạo
Kênh tiêu thụ lúa
Nhìn chung, kể từ 1980 công cuộc đổi mới cơ chế chính sách đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của một hệ thống lưu thông lúa gạo tự do ở Việt Nam. Thị trường lúa gạo trong nước đã được tháo gỡ khỏi mọi hạn chế ràng buộc. Hệ thống lưu thông phân phối và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo hiện nay hầu như hoàn toàn tự do với sự tham gia của nhiều đơn vị, nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
1.5. Các nhân tố kinh tế - xã hội tác động đến ngành sản xuất lúa gạo :
Nhóm nhân tố này bao gồm nhiều loại yếu tố khác nhau, trong đó có cả yếu tố vật chất và phi vật chất đã tác động và ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phân bố và phát triển ngành sản xuất lúa gạo.
Thứ nhất: với Việt Nam, trước hết phải nói đến một yếu tố quan trọng trong các yếu tố phi vật chất, đó là sự đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế quốc dân nói chung và nền nông nghiệp nói riêng, đã và đang là yếu tố tác động mạnh mẽ đối với ngành nông nghiệp sản xuất lúa gạo. Nó thúc đẩy nền nông nghiệp của đất nước có bước chuyển đáng kể, tiến tới một nền nông nghiệp hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ hai: các cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho sản xuất lúa gạo đang được nâng cấp, tăng cường như : thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, hoá học hoá, hệ thống các phương tiện giao thông vận tải thông tin liên lạc…cùng với những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới; các giống lúa mới với các phương pháp nhân giống và sự phát triển của ngành công nghệ sinh học…đã có những tác động tích cực đối với ngành sản xuất lúa gạo.
Thứ ba: lực lượng lao động trong ngành sản xuất lúa gạo của nước ta còn chiếm trên 50% lao động của xã hội của cả nước , đó cũng là một yếu tố quan trọng, một nguồn lực to lớn có ảnh hưởng không nhỏ cần được tận dụng khai thác có hiệu quả để phát triển ngành; đồng thời góp phầnn giải quyết một vấn đề xã hội quan trọng của đất nước đó là việc làm cho lao động.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NGÀNH SẢN XUẤT LÚA GẠO Ở VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO
2.1.Tình hình sản xuất lúa gạo trước khi gia nhập WTO :
Đã từ lâu cây lúa luôn giữ một vị trí trung tâm trong ngành nông nghiệp và nền kinh tế của Việt Nam. Hình ảnh đất Việt thường được mô tả như là một chiếc đòn gánh khổng lồ với hai đầu là hai vựa thóc lớn đó là ĐBSH và ĐBSCL. Đây là hai đồng bằng châu thổ có mật độ dân cư và thâm canh sản xuất nông nghiệp thuộc loại cao nhất trên thế giới. Điều kiện thời tiết khí hậu và địa lý thích hợp đã tạo một môi trường lý tưởng cho sản xuất lúa gạo tại hai đồng bằng châu thổ này.
Với cơ chế kế hoạch hoá sản xuất tập trung trong thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80, ngành lúa gạo đã lâm vào cảnh trì trệ, năng suất lúa giảm và các nguồn tiềm năng tự nhiên phục vụ cho sản xuất lúa gạo không được khai thác hết. Kể từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu sự nghiệp đổi mới kinh tế. Hộ gia đình đã thực sự được coi là một đơn vị sản xuất quan trọng trong nông thôn và được trao quyền tự chủ trong các quyết định sản xuất và tiêu thụ nông sản. Cơ chế khoán hộ cùng với những cải cách về chế độ sử dụng ruộng đất và thuế đã tạo ra một bước nhảy vọt trong nông nghiệp. Sản xuất lúa gạo tăng mạnh bắt đầu từ đầu thập kỷ 90.
Bảng 1 Diện tích, năng suất và sản lượng lúa phân theo vùng, giai đoạn 1990-2002
1990
2002
2002
1990-2002
% tăng hàng năm
% đóng góp tăng SL
1. Sản lượng lúa, 1000 tấn
Cả nước
19225.1
32529.5
34063.5
4.88
100.0
Đồng bằng sông Hồng
3890.8
6586.6
6685.3
4.61
100.0
Đông Bắc
1180.4
2065.0
2328.9
5.83
100.0
Tây Bắc
248.8
403.6
451.5
5.09
100.0
Bắc Trung Bộ
1642.3
2824.0
3138.9
5.55
100.0
Duyên hải Nam Trung Bộ
1347.3
1681.6
1705.4
1.98
100.0
Tây Nguyên
386.1
586.8
609.5
3.88
100.0
Đông Nam Bộ
1049.1
1679.2
1666.1
3.93
100.0
Đồng bằng sông Cửu Long
9480.3
16702.7
17477.9
5.23
100.0
2. Diện tích GT, 1000 ha
Cả nước
6042.8
7666.3
7485.4
1.80
37.3
Đồng bằng sông Hồng
1158.0
1212.6
1196.7
0.27
6.0
Đông Bắc
519.2
550.3
562.5
0.67
11.6
Tây Bắc
144.3
136.8
140.8
-0.20
-4.0
Bắc Trung Bộ
677.0
695.0
700.4
0.28
5.1
Duyên hải Nam Trung Bộ
414.6
422.5
399.5
-0.31
-15.5
Tây Nguyên
165.3
176.8
186.1
0.99
25.8
Đông Nam Bộ
384.3
526.5
485.6
1.97
50.6
Đồng bằng sông Cửu Long
2580.1
3945.8
3813.8
3.31
64.0
3. Năng suất lúa, tấn/ha
Cả nước
3.2
4.2
4.6
3.03
62.7
Đồng bằng sông Hồng
3.4
5.4
5.6
4.33
94.0
Đông Bắc
2.3
3.8
4.1
5.12
88.4
Tây Bắc
1.7
3.0
3.2
5.31
104.0
Bắc Trung Bộ
2.4
4.1
4.5
5.25
94.9
Duyên hải Nam Trung Bộ
3.2
4.0
4.3
2.30
115.5
Tây Nguyên
2.3
3.3
3.3
2.86
74.2
Đông Nam Bộ
2.7
3.2
3.4
1.92
49.4
Đồng bằng sông Cửu Long
3.7
4.2
4.6
1.86
36.0
Nguồn: Tính toán dựa theo số liệu của Tổng cục Thống Kê,1990-2002
Bên cạnh chính sách đổi mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất trong nước, hoạt động thương mại quốc tế đối với ngành hàng lúa gạo cũng đã được đẩy mạnh. Một trong những bước thay đổi quan trọng nhất trong chính sách thương mại đó là việc xoá bỏ hạn ngạch xuất khẩu và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu gạo, và cũng nhờ đó mà đã tăng nhanh được lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Không những đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà hàng năm còn xuất khẩu được 3-4 triệu tấn gạo. Trong giai đoạn 1997-2001, Việt Nam xuất khẩu trung bình hàng năm khoảng 3,8 triệu tấn, cung cấp gạo cho hơn 120 quốc gia trên thế giới, thuộc tất cả các Châu lục khác nhau, tuy nhiên chủ yếu vẫn là xuất sang Châu Á (52%), Châu Âu (20%) và Trung Đông (12,7%). 5 nước đứng đầu trong danh sách nhập khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 1997-2001 đó là: In-đô-nê-xi-a (14,8%), Phi-li-pin (12,6%), Xin-ga-po (9,9%), Irắc (9,8%) và Thuỵ sĩ (8,4%).
Bảng 2 Gạo XK của Việt Nam, bình quân hàng năm giai đoạn 1997-2001
%
Tấn
USD
USD/Tấn
Tổng xuất khẩu
100
3,808,655
843,051,138
221
10 nước nhập khẩu chính:
71,3
2,717,187
623,565,919
229
Indonesia
14,8
564055
125731239
223
Philippines
12,6
478