Điều 4 Hiến pháp 1992 của nước ta có quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”. Sự ghi nhận đó đã thể hiện rõ vai trò hạt nhân của Đảng trong quản lý Nhà nước và xã hội. Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thể hiện vai trò hạt nhân của mình trong việc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Đảng ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của lịch sử cách mạng nước ta, chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối cứu nước trong những năm đầu thế kỷ XX, đồng thời khẳng định vị trí lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng mở ra một thời kì mới cho sự phát triển của dân tộc, dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đảng là ngọn cờ đoàn kết các yếu tố giai cấp, dân tộc, quốc tế, tạo thành sức mạng tổng hợp giúp cách mạng Việt Nam đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
11 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4771 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích tiền đề ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Mục lục ……………………………………………………………………
1
A - Đặt vấn đề …………………………………………………………….
2
B - Giải quyết vấn đề ……………………………………………………..
2
I. Chủ nghĩa Mác - Lênin: cơ sở tư tưởng – lý luận để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam …………………………………………………..
3
II. Phong trào công nhân kết hợp với phong trào yêu nước …………...
4
III. Sự chuẩn bị về mặt thực tiển (về tư tưởng, chính trị, tổ chức) của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ……………………………………..
7
C – Kết luận ………………………………………………...……………..
10
Danh mục tài liệu tham khảo ……………………………………………...
11
A - ĐẶT VẤN ĐỀ:
Điều 4 Hiến pháp 1992 của nước ta có quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”. Sự ghi nhận đó đã thể hiện rõ vai trò hạt nhân của Đảng trong quản lý Nhà nước và xã hội. Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thể hiện vai trò hạt nhân của mình trong việc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Đảng ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của lịch sử cách mạng nước ta, chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối cứu nước trong những năm đầu thế kỷ XX, đồng thời khẳng định vị trí lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng mở ra một thời kì mới cho sự phát triển của dân tộc, dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đảng là ngọn cờ đoàn kết các yếu tố giai cấp, dân tộc, quốc tế, tạo thành sức mạng tổng hợp giúp cách mạng Việt Nam đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sau quá trình học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thấy được những tư tưởng sáng tạo, đúng đắn của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, và với mong muốn tìm hiểu rõ những tiền đề ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam – nhân tố đóng vai trò quan trọng giúp Cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, em đã quyết định chọn đề tài: “Phân tích tiền đề ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam” làm đề tài cho bài tập lớn học kỳ của mình.
B – NỘI DUNG:
I. Chủ nghĩa Mác - Lênin: cơ sở tư tưởng – lý luận để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam:
Có thể nói Chủ nghĩa Mác – Lênin chính là tiền đề quan trọng nhất cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mac – Lenin chính là học thuyết, là nguyên lý, là quy luật chung cho mọi đất nước, mọi dân tộc. Không một đất nước nào muốn đi lên chủ nghĩa xã hội mà lảng tránh chủ nghĩa Mác – Lenin, muốn đi lên chủ nghĩa xã hội thì nhất thiết phải lấy chủ nghĩa Mac – Lenin là cơ sở, là tiền đề. Nhận thức được điều đó, trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã khẳng định: ““bây giời học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính, chắc chắn nhất chỉ có chủ nghĩa Mác – Lênin”.
C.Mác và V.I.Lenin chủ yếu quan tâm đến vấn đề thành lập Đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, với nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động làm cách mạng nhằm lật đổ chế độ tư bản và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải thành lập Đảng Cộng sản. Sự ra đời của Đảng Cộng sản là yếu tố khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống áp bức bóc lột. Đảng phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, mọi chiến lược, sách lược của Đảng đều luôn xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân, mọi chiến lược, sách lược của Đảng đều luôn xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân, đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động.
Xuất phát từ tình hình thực tế ở các nước tư bản phuơng tây, V.I Lênin đã nêu ra luận điểm Đảng Cộng sản là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân phương tây. Ở đây, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, đông đảo nhất về lực lượng, lại được rèn luyện thử thách trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, có khả năng gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc. Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết xã hội khoa học, mang lý tưởng về một xã hội nhân đạo.
Một cuộc cách mạng muốn giành được thắng lợi cần phải được vũ trang bằng lý luận đúng đắn và khoa học, Đảng lãnh đạo của cuộc cách mạng đó phải được tổ chức và lãnh đạo theo nguyên một nguyên tắc phù hợp nhất. Chủ nghĩa Mác – Lênin và những luận điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng Cộng sản đáp ứng được những yêu cầu này đối vơi cuộc cách mạng ở Viêt Nam trong giai đoạn bấy giờ, bởi vì Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Học thuyết ấy đã chỉ ra con đường sự tự giải phóng con người và sự phát triển xã hội. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, đây là một tiền đề quan trọng, có vai trò quyết định đến đường lối, nguyên tắc hoạt động của Đảng sau này.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tư tưởng đó của chủ nghĩa Mác – Lenin nhưng điểm sáng tạo của Người là ở chỗ: Hồ Chí Minh đã đi sâu tìm hiểu tình hình thực tế của Việt Nam và Người nhận ra rằng nếu chỉ có chủ nghĩa Mác – Lenin và phong trào công nhân thì không thể thực hiện cách mạng vô sản được. Cứu nước là sự nghiệp của nhiều người, của đông đảo quần chúng nhân dân, của cả dân tộc chứ không thể là công việc của một vài người, một nhóm người hay của riêng một giai cấp nào. Vì vậy, Người đi tìm một lực lượng lãnh đạo mới mà lực lượng đó phải đáp ứng ba yêu cầu: có khả năng đề ra được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn; có khả năng vận động, tổ chức tập hợp lực lượng toàn thể lực lượng quần chúng (phải là toàn thể dân tộc chứ không phải chỉ một bộ phận quần chúng); gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản thế giới. Để đáp ứng được yêu cầu đó thì việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò là một tổ chức chính trị tiên phong, vững mạnh, đại diện cho toàn thể dân tộc là điều tất yếu. Đảng phải có nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, giải quyết được triệt để hai mâu thuẫn cơ bản là đánh đuổi thực dân đế quốc và lật đổ phong kiến, tư sản đem lại ruộng đất cho dân cày.
II. Phong trào công nhân kết hợp với phong trào yêu nước:
Tiền đề thứ hai cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là phong trào công nhân kết hợp với phong trào yêu nước. Dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu sâu sắc tình hình thực tế ở Việt Nam, một nước phong kiến nửa thuộc địa, kinh tế nông nghiệp lạc hậu và nông dân chiếm đa số trong xã hội. Nhận thức rõ được điều đó, trong tư tưởng của mình về Đảng Cộng sản, Người luôn đề cao luận điểm: “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước”.
Giai cấp công nhân Việt Nam mới được hình thành, là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân pháp. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX, khi thực dân pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp, đồn trại và thành phần phục vụ cho cuộc xâm lược và bình định nước ta. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), giai cấp công nhân còn ít, chỉ mười vạn người và trình độ còn thấp. Thời kỳ khai thác thuộc địa lần hai (1924 – 1929) số lượng công nhân chuyên nghiệp đã có 22 vạn người, chiếm 1,2% số dân. Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, bị ba tầng lớp đế quốc, phong kiến, và tư sản áp bức bóc lột. Với những điều kiện và hoàn cảnh như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, giai cấp công nhân Việt Nam tuy mới hình thành, mỏng về số lượng, phong trào còn non yếu, lại chưa có kinh nghiệm nhưng lại là một bộ phận tiên tiến của lực lượng sản xuất, là giai cấp cách mạng và giữ vai trò lãnh đạo, có tổ chức, có kỷ luật, nhạy bén với cái mới.
Trong khi đó, ở Việt Nam phong trào yêu nước rộng lớn đã và đang lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân, chủ yếu là nông dân vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, phong kiến. Trong lịch sử nước ta, từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những năm 20 của thế kỉ XX đã chứng kiến 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta. Tiêu biểu như phong trào Cần Vương, khởi nghĩa nông dân Yên Thế; phong trào Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục với xu hướng dân chủ tư sản.
Rõ ràng là cả phong trào công nhân và phong trào yêu nước đều có những điểm mạnh, điểm hạn chế riêng nhưng hai phong trào này đều có một mục tiêu chung, yêu cầu chung: giải phóng dân tộc, làm Việt Nam hoàn toàn độc lập, mang lại cuộc sống tự do, hạnh phúc cho nhân dân, nếu kết hợp chúng lại với nhau thì sẽ có được sức mạnh vô địch (sức mạnh trí tuệ và sức mạnh lực lượng) có thể chiến thắng mọi thiên tai địch họa. Từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh đã có sự sáng tạo lý luận, bổ sung và phát triển học thuyết của C.Mác và V.I.Lenin về xây dựng Đảng: “Chủ nghĩa Mác – Lenin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.”
Ở Việt Nam, nếu phong trào công nhân không gắn bó chặt chẽ với phong trào yêu nước, không trở thành nòng cốt của phong trào yêu nước, thì cách mạng cũng không đủ lực lượng để mở rộng cuộc đấu tranh và đưa nó đến thắng lợi. Giai cấp công nhân Việt Nam chủ yếu xuất thân từ nông dân, phần lớn vẫn còn mang nặng tư tưởng tiểu nông, nên trong tình hình cấp bách đặt ra, yêu cầu cách mạng phải được tiến hành một cách nhanh chóng, chớp lấy thời cơ, mà chỉ dựa vào lực lượng công nhân còn khá non trẻ ở nước ta thì cách mạng khó có thể giành thắng lợi.
Nếu phong trào yêu nước không được phong trào công nhân dẫn dắt với đội Tiên phong là Đảng Cộng sản thì cuộc đấu tranh của nó cũng không thể vạch ra được những đường lối đúng đắn, có những lý luận căn bản, chính xác, chắc chắn để đánh đuổi được bọn thực dân phong kiến, đưa cách mạng đến thắng lợi một cách triệt để. Thành công của Hồ Chí Minh chính là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn những quan điểm cơ bản chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới với việc phân tích sâu sắc tình hình thực tế của cách mạng ở Việt Nam để hoàn thiện lý luận về xây dựng đảng của mình.
Việc gắn liền phong trào công nhân với phong trào yêu nước, gắn giai cấp với dân tộc của Hồ Chí Minh đã có lúc bị hiểu nhầm, bị đánh giá nặng nề về dân tộc, nhẹ về giai cấp, là người dân tộc chủ nghĩa. Song thực tiển phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới đã kiểm nghiêm và chứng minh quan điểm về gắn chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, giai cấp với dân tộc là hoàn toàn đúng đắn. Sự gắn bó ấy không chỉ đúng với cách mạng Việt Nam, cách mạng thuộc địa, mà còn đúng với tất cả những nước đang đi vào con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội chủ nghĩa.
III. Những hoạt động thực tiễn chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết tiến tới thành lập Đảng
Nhìn dọc theo quá trình bôn ba tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh không những đã nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của một chính Đảng cách mạng, mà còn chuyển nhận thức đó thành thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người khẳng định muốn giải phóng dân tộc thành công “trước hết phải có Đảng cách mạng, để trong thì vận động và tổ chức quần chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”.
Tháng 7/1920, được đọc tác phẩm của V.I Lênin Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, đăng trên L’Humanité (số ra ngày 16 và 17), Người đã tìm thấy ở đây con đường giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Bản Luận cương đã giải đáp tất cả những điều Người trăn trở trong suốt mười năm đi tìm đường cứu nước. Từ đó, Người ra sức tìm hiểu về Lênin và Cách mạng Tháng mười Nga, tìm hiểu về chủ nghĩa Mác, càng hăng say hoạt động trong phong trào đấu tranh của công nhân và lao động Pháp, ủng hộ nước Nga cách mạng chống lại sự can thiệp của 14 nước tư bản đế quốc muốn bóp chết nhà nước Xô Viết non trẻ. Cuối tháng 12/1920, Người đã tán thành Quốc tế thứ III và là người dân thuộc địa duy nhất tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là sự phát triển logic tất yếu của tư tưởng Nguyễn Ái Quốc. Đây cũng là bước chuyển căn bản của Người kết thúc mười năm tìm đường cứu nước để bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ xác lập một đường lối cách mạng mời phù hợp với xu thế chung của thời đại, thời kì thức tỉnh dân tộc và đưa dân tộc theo con đường cách mạng đúng đắn, thời kỳ chuẩn bị tích cực cho việc thành lập một Đảng Cộng sản Việt Nam, thời kỳ dẫn đường cho cả dân tộc đi đến thắng lợi của sự nghiệp giải phóng và phát triển. Đó chính là sự chuẩn bị về mặt tư tưởng của Hồ Chí Minh cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là sự chuẩn bị có vai trò rất quan trọng, giúp Đảng ta có được một lý luận chính xác và chắc chắn trong quá trình hình thành, cũng như việc lãnh đạo thành công cách mạng của Đảng sau này.
Với nhận thức đó, từ rất sớm, trong những hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh luôn quan tâm chú ý đến việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập một chính đảng cách mạng ở Việt Nạm. Người tiếp tục đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, chế độ Xô Viết mới ra đời và tích cực tham gia nhiều hoạt động của quốc tế Cộng sản. Hội liên hiệp thuộc địa được thành lập năm 1921 và Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông được thành lập năm 1925 là những tổ chức đầu tiên của phong trào giải phóng dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc vừa là người khởi sướng, vừa là người tổ chức, lãnh đạo với vai trò chủ yếu nhất.
Như vậy, từ một người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một người cộng sản, người chiến sĩ quốc tế của phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc. Người đã kết hợp chặt chẽ các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đây là sự chuẩn bị rất quan trọng về tư tưởng cho cách mạng Việt Nam. Trong thời gian này Nguyễn Ái Quốc đã xác định đường lối đúng đắn cho Cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối giải phóng dân tộc. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên - tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho việc chuẩn bị cả về ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập Đảng sau này. Thông qua tổ chức tiền thân là hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, có cộng sản đoàn là nòng cốt, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện đào tạo, bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên theo chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối cách mạng mới, bằng cách mở các lớp huấn luyện tại Quảng Châu từ năm 1925 đến 1927. Sau khoá học, phần lớn họ trở về nước truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân, còn một số ít được chọn vào trường quân sự Hoàng Phố và trường Đại học Phương Đông học tập để sau đó trở về Việt Nam hoạt động trong phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân khác, làm cho phong trào chuyển dần từ tự phát sang tự giác. Đây chính là sự gặp gỡ tất yếu của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam với tư tưởng cách mnạg tiên tiến nhất của thời đại.
Sự xuất hiện ba tổ chức Cộng sản Việt Nam là: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, và Đông Dương cộng sản liên Đoàn từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930 là sản phẩm tất yếu của phong trào yêu nước dâng cao, là sản phẩm tất yếu của sự chuyển biến về ý thức hệ. Những người cách mạng thanh niên không còn đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, cần phải có Đảng Cộng sản thay thế. Nhưng trong một nước không thê tồn tại đồng thời ba tổ chức Cộng sản có cùng một mục tiêu lý tưởng. Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập đại biểu và chủ trì hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930 để đáp ứng nhu cầu bức thiết của Cách mạng Việt Nam.
Từ những tiền đề dẫn đến sự thành lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã một phần thể hiện bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam: là đảng của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đồng thời Đảng không tách rời giai cấp công nhân với các tầng lớp lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc. Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc. Cũng từ đó nhân dân lao động và cả dân tộc thừa nhận Đảng ta là người lãnh đạo, người đại biểu chân chính cho quyền lợi cơ bản và thiết thân của mình.
C - KẾT LUẬN:
Tóm lại, ba tiền đề: chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước, và sự chuẩn bị về mặt thực tiễn của Hồ Chí Minh đã là những tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiểu rõ được những tiền đế đó, ta càng thấy rõ được bản chất của Đảng ta, thấy rõ được vai trò quyết định của Đảng trong mọi bước đường hoạt động của đất nước ta. Sự sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản việt Nam là dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng Đảng để nghiên cứu tình hình thực tế ở Việt Nam, từ đó có sự khái quát về tư tưởng, lý luận; và từng bước tổ chức hoạt động thực tiễn để kiểm nghiệm tính đúng đắn của những tư tưởng, lý luận đã tổng kết, khái quát được của mình.
Qua 70 năm phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa con thuyền cách mạng nước ta đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, dù trong hoàn cảnh nào, bằng sự soi sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta cũng tìm ra được những đường lối đúng đắn, kịp thời sửa chữa những hạn chế còn mắc phải. Nước ta đang tiến hành chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nhằm đề ra những chủ trương, đường lối, chính sách để phát triển và xây dựng đất nước phù hợp với tình hình hiện nay; việc học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản để soi sáng cho cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng càng cấp bách hơn bao giờ hết. Thiết nghĩ, nhờ những tiền đề vững chắc cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta sẽ hoàn thành được mục tiêu của mình, đưa nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân.
Do trình độ còn hạn chế, lượng tài liệu tham khảo được tiếp cận không nhiều, lại phải tiếp cận với một vấn đề mang tính thực tiễn và lý luận khá phức tạp, nên bài làm của em không thể tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô để em có thể hoàn thiện được kiến thức của mình. Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh Một số nhận thức cơ bản – TS. Nguyễn Mạnh Tường – Nxb Chính trị Quốc gia – Hà Nội năm 2009
2. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các cán bộ khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2003.
3. Góp phần tìm hiểu lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam: hỏi và đáp, Nguyễn Trọng Phúc, Nguyễn Quốc Bảo, Tái bản có sửa chữa, bổ sung, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2001.
4. Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.Tập 1 : 1920-1954, Nxb. Sách giáo khoa Mác Lê-nin, Hà Nội năm 1983.
5. Những bài giảng về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, Nguyễn Khánh Bật, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2000.
6. Mối quan hệ giữa Đảng và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, PTS. Đàm Văn Thọ, PTS. Vũ Hùng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1997.
7. Một số chuyên đề về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, Mạnh Quang Thắng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1996
8. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam, Mạnh Quang Thắng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1995.
9. Tư tưởng Hồ Chí Minh một số nội dung cơ bản, Nguyễn Bá Linh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1995.