Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là cái mốc để đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội. Muốn vậy, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên trên thực tế, không phải khi nào nguyên tắc này cũng được hiểu đúng, đầy đủ và thực hiện triệt để. Bài viết dưới đây nhóm chúng em đi: phân tích và trình bày những nội dung cơ bản của nguyên tắc, ý nghĩa và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này.
13 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2308 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A – MỞ ĐẦU
Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là cái mốc để đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội. Muốn vậy, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên trên thực tế, không phải khi nào nguyên tắc này cũng được hiểu đúng, đầy đủ và thực hiện triệt để. Bài viết dưới đây nhóm chúng em đi: phân tích và trình bày những nội dung cơ bản của nguyên tắc, ý nghĩa và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này.
B – NỘI DUNG
I – Những vấn đề chung về nguyên tắc “ khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
1. Khái niệm nguyên tắc và cơ sở của nguyên tắc
Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự: là những tư tưởng chủ đạo có tính chất bắt buộc thể hiện quan điểm của Nhà nước trong hoạt động xét xử, được quy định trong luật tố tụng hình sự, theo đó chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm ( Hội đồng xét xử) mới có quyền đưa ra phán quyết trên cơ sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác.
Cơ sở pháp lý của nguyên tắc: Điều 130 Hiến pháp năm 1992 quy định: “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây là cơ sở pháp lý để Bộ luật tố tụng hình sự xây dựng nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
2. Nội dung của nguyên tắc “ khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” theo pháp luật hiện hành
2.1. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập
Độc lập nghĩa là tự đưa ra quyết định trên những chứng cứ và quy định của pháp luật để kết luận về vụ án mà không phụ thuộc vào bất cứ sự tác đọng nào khác. Về chủ thể của hoạt động xét xử thì sự độc lập được biểu hiện trên hai khía cạnh: độc lập với yếu tố khách quan và độc lập với yếu tố chủ quan.
2.1.1. Độc lập với các yếu tố khách quan
a. Độc lập với chủ thể khác của Tòa án
b. Độc lập với sự chỉ đạo của cấp Uỷ đảng
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình Đảng đề ra chủ trương chính sách để lãnh đạo các cơ quan nhà nước, không can thiệp sâu vào hoạt động chuyên môn của các cơ quan nhà nước đó. Đối với hoạt động của Tòa án nhân dân, biểu hiện của sự lãnh đạo của Đảng là chủ trương xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng không mâu thuẫn với sự độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm song thực tế, chế độ Đảng lãnh đạo nhà nước trong đó có các cơ quan, đơn vị, vị trí của cấp Uỷ đảng trong việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến sự độc lập của thẩm phán khi có sự tác động từ cấp Uỷ đảng. Chính vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm phải nhận thức đúng sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp để bảo đảm sự độc lập xét xử.
c. Độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án
Độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nghĩa là “ Thẩm phán và Hội thẩm phải trực tiếp xem xét các chứng cứ của vụ án chứ không phải chỉ căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hay các chứng cứ mà Viện kiểm sát đã đưa ra trong bản cáo trạng. Bản án của Tòa án chỉ căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, đối chiếu với những quy định của pháp luật đề xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.
d. Độc lập với những yêu cầu của người tham gia tố tụng với dư luận và với cơ quan báo chí
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập với yêu cầu của người tham gia tố tụng với báo chí, với dư luận nghĩa là việc xét xử chỉ dựa trên những chứng cứ, những quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào yêu cầu của những người nói trên. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc được phép tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
2.1.2. Độc lập với các yếu tố chủ quan
Độc lập với các thành viên của Hội đồng xét xử có quyền ngang nhau trong việc đánh giá chứng cứ: Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán. Luật quy định Thẩm phán và Hội thẩm ngang quyền nhau trong xét xử, có nghĩa là mỗi một thành viên của Hội đồng xét xử có quyền ngang nhau trong việc đánh giá chứng cứ thực và đưa ra quyết định vụ án. Việc đánh giá chứng cứ, kết luận được thực hiện một cách độc lập. Thẩm phán không được phép chỉ đạo Hội thẩm trong việc định tội danh, quyết định hình phạt.Hội thẩm cũng không được có thái độ ỷ lại Thẩm phán mà phải tích cực, chủ động và có trách nhiệm trong hoạt động chứng minh tội phạm.
2.2. Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật
Nội dung không kém phần quan trọng của nguyên tắc đó là việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập không có nghĩa là tùy tiện mà việc xét xử phải tuân theo pháp luật. Nó đòi hỏi “ Thẩm phán và Hội thẩm không một bước xa rời pháp luật, không có bất cứ một sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không tha thứ cho bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào”. Việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm chỉ dựa trên những quy định của pháp luật và pháp luật là căn cứ duy nhất để quyết định các vấn đề giải quyết vụ án. Pháp luật là tối thượng như lời luật sư xixêrôn thời La mã cổ đại đã từng nói: “ Quan tòa, đó là một đạo luật biết nói, còn đạo luật là một vị quan tòa câm”.
Nội dung Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật thể hiện ở những khía cạnh sau:
Sự tuân theo pháp luật hình sự: Luật hình sự nói chung bao gồm cả luật thực định và khoa học về luật hình sự. Bộ luật hình sự gồm hai phần là phần chung và phần các tội phạm. Muốn áp dụng đúng các quy định của bộ luật hình sự buộc thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức về định tội, quyết định hình phạt.
Sự tuân theo pháp luật tố tụng hình sự: có thể chia hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm thành hai giai đoạn. Thứ nhất là từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến trước ngày mở phiên tòa là giai đoạn hội thẩm xâm nhập hồ sơ để xem xét lại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, từ đó xây dựng kế hoạch xét hỏi và những tình huống xảy ra tại phiên tòa để có kế hoạch ứng phó thích hợp và những công việc khác cần thiết cho phiên tòa. Thứ hai là tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cần nắm chắc quy định của bộ luật tố tụng hình sự từ thủ tục bắt đầu tại phiên tòa đến khi kết thúc phiên tòa, trong đó quan trọng nhất là phần xét hỏi, tranh luận và nghị án.
Sự tuân theo các văn bản pháp luật khác có liên quan:
Pháp luật dân sự: khi giải quyết vụ án hình sự cùng với việc giải quyết vấn đề tội danh, mức hình phạt, xử lý vật chứng, Hội đồng xét xử cần phải giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự, chủ yếu là giải quyết thiệt hại ngoài hợp đồng. Để gải quyết vấn đề trên đòi hỏi Hội đồng xét xử phải nắm rõ các quy định của pháp luật dân sự về căn cứ bồi thường, mức bồi thường, nguyên tắc bồi thường.
Pháp luật chuyên ngành: Hoạt động định tội danh là một hoạt động khá phức tạp đòi hỏi những người làm công tác xét xử phải có kiến thức tổng hợp về pháp luật chứ không đơn thuần là chỉ hiểu biết các quy định của luật hình sự. Một số tội danh không được mô tả trực tiếp tại các điều luật của bộ luật hình sự mà hành vi cụ thể được quy định ở các luật, văn bản pháp luật chuyên nghành. Muốn định tội danh đều phải nắm rõ các quy định của văn bản pháp luật chuyên ngành. Nếu không am hiểu phải trưng cầu ý kiến của chuyên gia về các lĩnh vực cụ thể. Ngoài ra, Thẩm phán và Hội thẩm cũng cần phải nắm chắc các văn bản hướng dẫn của TANDTC. Các thông tư liên nghành để giải quyết chính xác các trường hợp cụ thể.
3. Mối quan hệ giữa xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Độc lập là điều kiện cần thiết để thẩm phán và hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và hội thẩm độc lập khi xét xử.Yếu tố độc lập và tuân theo pháp luật không thể tách rời nhau. Độc lập nhưng phải tuân theo pháp luật, tuân theo pháp luật nhưng phải có sự độc lập, tránh tình trạng áp đặt. Nếu thành viên của Hội đồng xét xử không có sự độc lập dễ dẫn đến xét xử theo sự áp đặt của Thẩm phán, sự phụ thuộc, ỷ lại của Hội thẩm. Sự tác động của các yếu tố khác ngoài Hội đồng xét xử và sẽ dẫn đến quyết định của bản án không chính xác và thiếu khách quan hoặc xét xử quá nặng hoặc xét xử quá nhẹ. Độc lập mà không tuân theo pháp luật thì độc lập trong xét xử không còn có ý nghĩa vì sự xét xử độc đoán, tùy tiện, không tránh khỏi sự chủ quan, cảm tính khi đánh giá vấn đề. Từ phân tích trên đây có thể nói rằng, yếu tố độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau, độc lập trong sự thống nhất với việc tuân theo pháp luật.
II - Ý nghĩa của nguyên tắc “ khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đóng vai trò quan trọng và mang một ý nghĩa không chỉ trong việc điều chỉnh hoạt động xét xử của Tòa án mà còn trong nhiều lĩnh vực khác.
Thứ nhất, độc lập xét xử là một trong những nguyên tắc đặc thù, mang tính chất riêng trong tố tụng ở nước ta. Tuy nguyên tắc này là nguyên tắc Hiến định cho mọi thủ tục tố tụng ở nước ta nhưng ở mỗi một thủ tục tố tụng của mỗi ngành luật khác nhau thì nguyên tắc này lại mang tính chất khác nhau. Trong tố tụng dân sự, nguyên tắc này mang tính chất tương đối mềm dẻo. Khi hai đương sự có lợi ích hợp pháp bị xâm phạm quyền khởi kiện hoặc không khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi đương sự khởi kiện thì mọi hành vi tố tụng tiếp theo do đương sự quyết định. Tòa án chỉ giải quyết những vấn đề đương sự yêu cầu còn vấn đề đương sự không yêu cầu thì Tòa án không giải quyết. Mặc dù Tòa án vẫn giữ vai trò chủ động xét xử song việc giải quyết vụ án dân sự trước tiên vẫn phụ thuộc vào sự định đoạt, thảo thuận giữa các bên đương sự. Do vậy , nguyên tắc “ độc lập xét xử” không được áp dụng triệt để.
Trong khi đó, ở tố tụng hình sự, nguyên tắc “độc lập xét xử” mang tính chất tuyệt đối. Xét xử - hoạt động tố tụng của Tòa án – được coi là hoạt động trung tâm của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự nên các nguyên tắc về xét xử được các nhà làm luật quan tâm hơn cả, trong đó, trước tiên và quan trọng nhất là nguyên tắc “ độc lập xét xử”. Khi xét xử, Hội đồng xét xử( Thẩm phán và Hội thẩm) sẽ dựa vào những căn cứ hợp lý để đưa ra quyết định hoặc bản án mà không phụ thuộc vào ý kiến của cơ quan điều tra, viện kiểm sát hay yêu cầu, thỏa thuận nào của người bị hại, của bị can, bị cáo. Chỉ có Tòa án mới có quyền quyết định một người nào đó co tội hay không có tội mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của họ. Như vậy, sự độc lập trong xét xử trong tố tụng hình sự là bắt buộc, nó thể hiện tính chất “cứng rắn triệt để theo đúng tinh thần pháp : mọi hành vi phạm tội được phát hiện xử lý nghiêm minh và kịp thời”
Thứ hai,ý nghĩa chính trị, xã hội:
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật xác định vai trò, vị trí của cơ quan Tòa án trong hệ thống cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử và khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Không có một cơ quan, cá nhân nào được phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt động này phải đảm bảo sự độc lập trên cơ sở chỉ tuân theo pháp luật.
Nguyên tắc này còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo công bằng xã hội. Mọi cá nhân dù ở địa vị xã hội nào, nếu vi phạm pháp luật đều bị xét xử như nhau. Thẩm phán độc lập là một trong các yếu tố để thực hiện công bằng xã hội, xây dựng một nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, một nhà nước của dân và vì dân.
Độc lập xét xử còn mang một ý nghĩa quan trọng để đảm bảo cho môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, ổn định. Mọi tranh chấp đầu tư sẽ được bảo vệ bởi một chế tài phán xét xử độc lập, vô tư, khách quan. Các quyền cơ bản của mỗi người trong xã hội cũng sẽ được đảm bảo khi người cầm cân nảy mực thực sự độc lập xét xử những hành vi vi phạm. Độc lập xét xử cũng là một điểm quan trọng để đảm bảo sự thành công của việc phòng chống tham nhũng bởi những kẻ tham nhũng không có cơ hội được bao che bởi sự can thiệp hoặc tác động vào quá trình xét xử của Tòa án.
Nguyên tắc này cũng gián tiếp thể hiện bản chất của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là nhà nước do dân làm chủ, nhân dân tham gia giám sát các hoạt động của Nhà nước.
Thứ ba, ý nghĩa pháp lý: Nguyên tắc này là một cơ sở pháp lý để Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành hoạt động xét xử được khách quan, đúng pháp luật, từ đó mà tòa án có thể thực hiện tốt các chức năng xét xử của mình theo quy định của pháp luật. Đây cũng là cơ sở để đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luật được thực thi một cách nghiêm túc bởi những người thi hành pháp luật và những người xét xử hành vi vi phạm pháp luật. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm và Thẩm phán.
Thứ tư, ý nghĩa thực tiễn: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có ý nghĩa trong việc đảm bảo xét xử khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nguyên tắc này loại từ sự tác động tiêu cực của các cơ quan, tổ chức khác đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm và đảm bảo sự bình đẳng độc lập nữa các thành viên của Hội đồng xét xử.
III -Thực tiễn áp dụng nguyên tắc “ khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” theo pháp luật hiện hành
1.Một số biểu hiện của việc không độc lập và tuân theo pháp luật của thẩm phán và Hội thẩm.
Thứ nhất, hoạt động xét xử chủ yếu là hoạt động của Thẩm phán. Hội thẩm chưa phát huy hết quyền năng được giao khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Thực tế, đối với những vụ án không phức tạp, Hội thẩm chỉ đến nghiên cứu hồ sơ ngay sát buổi phiên tòa được mở nên chỉ nghiên cứu bản cáo trạng và một số lời khai, còn không nghiên cứu những tài liệu phản ánh việc thu thập các chứng cứ khác như biên bản khám nghiệm hiện trường, các quy định về khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Điều đó dẫn đến tình trạng Hội thẩm không xác định được những vấn đề cần phải chứng minh của vụ án. Khi tham gia xét hỏi, Thẩm phán “độc diễn”, Hội thẩm không có gì để hỏi và khi đưa ra kết luận thường nghiêng theo ý chí của Thẩm phán.
Thứ hai, Thẩm phán và Hội thẩm quá lệ thuộc vào kết quả điều tra ban đầu là những tài liệu, thông tin có trong hồ sơ vụ án. “Việc giải quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn, những người có quyền lợi ích hợp pháp để ra những bản án quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục”. Tại phiên tòa, nhiệm vụ của Hội đồng xét xử là phải kiểm tra, đánh giá các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xem xét kết luận trước đó có cơ sở hay không. Nhiều vụ án, Hội đồng xét xử tin vào kết quả điều tra có trong hồ sơ vụ án nên có thành kiến bị cáo có tội, từ đó đặt ra những câu hỏi mang tính áp đặt buộc bị cáo khai đúng với những lời khai trước đó.
Thứ ba, có sự thống nhất chứng cứ và định hướng trước việc xét xử. Đó là việc họp án ba ngành, họp bàn án trong nội bộ cơ quan, thỉnh thị án cấp trên trước khi xét xử. Thực tiễn công việc trên đã phát huy tính tích cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thủ tục tố tụng đảm bảo chặt chẽ hơn, chứng cứ chứng minh cũng được củng cố. Tuy nhiên kết quả họp cũng có tác động rất lớn đến việc hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Có nhiều trường hợp diễn biến tại phiên tòa có những điểm khác nhưng do quá tin vào cuộc họp ba ngành nên Hội đồng xét xử cố gắng chứng minh theo kết luận ban đầu và dù thế nào thì bị cáo cũng vẫn có tội. Bên cạnh đó, hoạt động thỉnh thị án cấp trên và họp bàn án nhằm mục đích áp dụng thống nhất pháp luật cũng tồn tại hạn chế. Xuất hiện hiện tượng lạm dụng việc thỉnh thị án và họp bàn án. Nhiều Thẩm phán và Hội thẩm xem xét ý kiến của Tòa án cấp trên là bắt buộc nên tuân theo. Việc này tạo nên tâm lí cấp dưới ỷ lại cấp trên, không có sự độc lập trong xét xử của mình.
Thứ tư, có sự tác động từ các nhân tố bên ngoài đến hoạt động xét xử của thẩm phán và hội thẩm.
Sự tác động của chánh án: Chỉ đạo của Chánh án, thẩm phán không thể không nghe. Nếu chỉ đạo đúng thì không sao nhưng có trường hợp lạm dụng sự chỉ đạo để tác động trái pháp luật vào hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
Sự tác động của cấp ủy Đảng: ảnh hưởng ý kiến từ lãnh đạo địa phương, lãnh đạo ngành. (Sự can thiệp của cá nhân, vì quyền lợi cá nhân, nhân danh Đảng, tổ chức để tác động, không tuân theo nguyên tắc lãnh đạo của Đảng vì quyền lợi của quốc gia). Ví dụ:Vụ án Nông Trường Sông hậu. Theo báo chí, năm 2007, thành ủy Cần Thơ có khuyên bà Trần Ngọc Sương xin về hưu, vì Cần Thơ cần đất của Nông trường Sông Hậu đề xây dựng khu đô thị mới nhưng bà Sương không nghe. Năm sau, Công an Cần Thơ khởi tố vụ án do có công văn chỉ đạo của Thành ủy Cần Thơ, thậm chí thành ủy còn chỉ đạo khởi tố về tội “cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng”. Thông thường việc này phải do cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát tiến hành và các ban lãnh đạo, các cấp Uỷ đảng chỉ có thể phối hợp với cơ quan tư pháp để đẩy nhanh vụ án, chứ không bao giờ được chỉ đạo cụ thể tội dnah, thì ở đây, không hiểu vì lí do gì bên trong mà cơ quan Đẩng chỉ đạo cơ quan điều tra khởi tố vụ án. (nguồn: www.laodong.com.vn).
Sự tác động của cá nhân, tổ chức khác: Ví dụ người tham gia tố tụng bằng nhiều cách như hối lộ, đe dọa…nhằm hướng hoạt động xét xử theo hướng có lợi cho họ.
Sự tác động của cơ quan báo chí, dư luận: Khi xét xử những vụ gây bất bình trong quần chúng nhân dân, thay vì phải đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội sau khi đã cân nhắc tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì Hội đồng đã dựa vào dư luận địa phương để quyết định mức hình phạt.
2. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của nguyên tắc trong thực tiễn.
Để nâng cao tính độc lập trong xét xử của các Hội đồng xét xử, hạn chế tối đa oan sai, tiêu cực; xét xử đúng người, đúng tội, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, theo chúng tôi, cần phải làm tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giữ gìn đạo đức, lương tâm nghề nghiệp. Các Thẩm phán phải được đào tạo chuẩn (có trình độ tốt nghiệp đại học và trên đại học chuyên ngành luật) và thường xuyên được cập nhật những kiến thức mới về tin học, ngoại ngữ, pháp luật quốc tế. Đồng thời, có tinh thần dũng cảm, dám đấu tranh cho sự công bằng, bảo vệ lẽ phải. Chỉ khi Thẩm phán có một trình độ chuyên môn cao với cái tâm trong sáng, tôn trọng sự công bằng, thì họ mới không bị chi phối bởi những suy nghĩ lệch lạc hoặc những tác động bên ngoài mang tính chất vụ lợi cá nhân. Khi đó, Thẩm phán sẽ có niềm tin nội tâm vững chắc để xét xử đúng pháp luật. Cùng với Thẩm phán, các Hội thẩm nhân dân cũng phải được bồi dưỡng tập huấn nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng xét xử để đủ năng lực khi xét xử.
Đổi mới quy trình bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng rút ngắn thủ tục, giảm sự can thiệp của các cơ quan chính quyền địa phương. Nhiệm kỳ năm năm đối với Thẩm phán các cấp hiện nay là quá ngắn. Vì vậy, để Thẩm phán yên tâm công tác, tận dụng được tối đa kinh nghiệm xét xử và dám thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp, cần kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán. Mặt khác, để thực hiện bổ nhiệm Thẩm phán có chất lượng, phải thực hiện thường xuyên quy trình luân chuyển cán bộ, nguồn bổ nhiệm Thẩm phán cấp trên nên là Thẩm phán cấp dưới trong một thời hạn nhất định, nguồn bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án Tòa án cấp trên nên chú trọng lấy từ các Chánh án, Phó Chánh án Tòa án cấp dưới đã làm tốt công tác quản lý, xét xử.
Cần hoàn thiệ