Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đang là vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay. Chính đặc điểm này đã tạo sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Các định chế và các tổ chức kinh tế - thương mại khu vực và quốc tế đã được hình thành để phục vụ cho kinh tế quốc tế và các lĩnh vực khác trên thế giới. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập ngày 1/1/1995 đến nay đã có hơn 148 nước tham gia và tương lai sẽ trở thành tổ chức lớn nhất hành tinh.
Ngày 11/1/2007, Việt Nam ta đã chính thức gia nhập tổ chức WTO, mở đầu chặng đường hội nhập một cách sâu rộng và hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế thế giới đã mang lại những thành tựu to lớn cho đất nước ta, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo, công ăn việc làm, bảo vệ môi trường, củng cố an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng gây ra nhiều áp lực với môi trường, trong đó phải kể đến sự gia tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường từ bên ngoài, chất lượng môi trường suy thoái, tài nguyên môi thiên nhiên cạn kiệt, cân bằng sinh thái bị đảo lộn.
Sự ô nhiễm và suy giảm môi trường nghiêm trọng dẫn đến công tác bảo vệ môi trường có ý nghĩa vô cùng lớn. Bảo vệ môi trường được coi là một trong những nền tảng cơ bản cho sự phát triển lâu dài và bền vững của đất nước. Do vậy, trong thời kỳ hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa, việc bảo vệ và giữ gìn một môi trường trong lành, xanh sạch đẹp đã trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và hết sức cần thiết đối với mọi quốc gia, đặc biệt là với Việt Nam – một quốc gia đang phát triển và có môi trường ô nhiễm khá nặng. Ở Việt Nam, công tác bảo vệ môi trường bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Trong đó hoạt động quản lý chất thải là một hoạt động quan trọng và thu hút được khá nhiều sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức và cá nhân. Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, khi môi trường đang ngày một suy thoái ở mọi lĩnh vực thì công tác bảo vệ môi trường nói chung cũng như hoạt động quản lý chất thải nói riêng ở Việt Nam cần được đẩy mạnh hơn nữa.
Tiến vào thời kỳ hội nhập, công tác quản lý môi trường cũng như công tác quản lý chất thải ở Việt Nam có rất nhiều những điều kiện thuận lợi để thực một cách nhanh chóng và có hiệu quả cao. Tuy nhiên, sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong thời kỳ hội nhập cũng lại đặt ra cho công tác quản lý chất thải ở nước ta rất nhiều thách thức, khó khăn cần được khắc phục.
Để tiến hành công tác quản lý chất thải có hiệu quả, Đảng và Nhà nước đã đưa ra một số những biện pháp cụ thể trong đó biện pháp quan trọng nhất và có hiệu quả nhất là biện pháp quản lý chất thải bằng pháp luật. Biện pháp này được thực hiện bằng việc Đảng và Nhà nước đã cho ra đời nhiều văn bản pháp quy quy định về công tác quản lý chất thải. Thông qua hệ thống các văn bản pháp quy hiện hành ấy, ta có thể đánh giá được một cách toàn diện nhất hoạt động quản lý chất thải ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Với mong muốn tìm hiểu và nâng cao hơn nữa vốn kiến thức thực tế cũng như kiến thức pháp lý về vấn đề quản lý chất thải trong thời kỳ hội nhập kinh tế và những tác động tích cực, hạn chế của hội nhập kinh tế đến việc bảo vệ môi trường mà cụ thể là hoạt động quản lý chất thải ở Việt Nam, em đã lựa chọn đề tài này. Thông qua đề tài, em mong muốn đóng góp một phần hiểu biết của mình vào công tác bảo vệ, phát triển môi trường trong thời kỳ đổi mới; cải thiện môi trường ngày càng xanh, sạch, đẹp; từ đó thúc đẩy nền kinh tế đất nước ngày một phát triển, nâng cao đời sống con người Việt Nam ngày một sung túc, khỏe mạnh.
22 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2822 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật quản lý chất thải trong thời kỳ hội nhập kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đang là vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay. Chính đặc điểm này đã tạo sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Các định chế và các tổ chức kinh tế - thương mại khu vực và quốc tế đã được hình thành để phục vụ cho kinh tế quốc tế và các lĩnh vực khác trên thế giới. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập ngày 1/1/1995 đến nay đã có hơn 148 nước tham gia và tương lai sẽ trở thành tổ chức lớn nhất hành tinh.
Ngày 11/1/2007, Việt Nam ta đã chính thức gia nhập tổ chức WTO, mở đầu chặng đường hội nhập một cách sâu rộng và hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế thế giới đã mang lại những thành tựu to lớn cho đất nước ta, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo, công ăn việc làm, bảo vệ môi trường, củng cố an ninh quốc phòng... Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng gây ra nhiều áp lực với môi trường, trong đó phải kể đến sự gia tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường từ bên ngoài, chất lượng môi trường suy thoái, tài nguyên môi thiên nhiên cạn kiệt, cân bằng sinh thái bị đảo lộn...
Sự ô nhiễm và suy giảm môi trường nghiêm trọng dẫn đến công tác bảo vệ môi trường có ý nghĩa vô cùng lớn. Bảo vệ môi trường được coi là một trong những nền tảng cơ bản cho sự phát triển lâu dài và bền vững của đất nước. Do vậy, trong thời kỳ hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa, việc bảo vệ và giữ gìn một môi trường trong lành, xanh sạch đẹp đã trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và hết sức cần thiết đối với mọi quốc gia, đặc biệt là với Việt Nam – một quốc gia đang phát triển và có môi trường ô nhiễm khá nặng. Ở Việt Nam, công tác bảo vệ môi trường bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Trong đó hoạt động quản lý chất thải là một hoạt động quan trọng và thu hút được khá nhiều sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức và cá nhân. Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, khi môi trường đang ngày một suy thoái ở mọi lĩnh vực thì công tác bảo vệ môi trường nói chung cũng như hoạt động quản lý chất thải nói riêng ở Việt Nam cần được đẩy mạnh hơn nữa.
Tiến vào thời kỳ hội nhập, công tác quản lý môi trường cũng như công tác quản lý chất thải ở Việt Nam có rất nhiều những điều kiện thuận lợi để thực một cách nhanh chóng và có hiệu quả cao. Tuy nhiên, sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong thời kỳ hội nhập cũng lại đặt ra cho công tác quản lý chất thải ở nước ta rất nhiều thách thức, khó khăn cần được khắc phục.
Để tiến hành công tác quản lý chất thải có hiệu quả, Đảng và Nhà nước đã đưa ra một số những biện pháp cụ thể trong đó biện pháp quan trọng nhất và có hiệu quả nhất là biện pháp quản lý chất thải bằng pháp luật. Biện pháp này được thực hiện bằng việc Đảng và Nhà nước đã cho ra đời nhiều văn bản pháp quy quy định về công tác quản lý chất thải. Thông qua hệ thống các văn bản pháp quy hiện hành ấy, ta có thể đánh giá được một cách toàn diện nhất hoạt động quản lý chất thải ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Với mong muốn tìm hiểu và nâng cao hơn nữa vốn kiến thức thực tế cũng như kiến thức pháp lý về vấn đề quản lý chất thải trong thời kỳ hội nhập kinh tế và những tác động tích cực, hạn chế của hội nhập kinh tế đến việc bảo vệ môi trường mà cụ thể là hoạt động quản lý chất thải ở Việt Nam, em đã lựa chọn đề tài này. Thông qua đề tài, em mong muốn đóng góp một phần hiểu biết của mình vào công tác bảo vệ, phát triển môi trường trong thời kỳ đổi mới; cải thiện môi trường ngày càng xanh, sạch, đẹp; từ đó thúc đẩy nền kinh tế đất nước ngày một phát triển, nâng cao đời sống con người Việt Nam ngày một sung túc, khỏe mạnh...
Thực hiện đề tài này, em đã tìm hiểu một số nội dung cơ bản về quản lý chất thải trong thời kỳ hội nhập, cũng như nội dung pháp luật Việt Nam về vấn đề này, từ đó tìm ra những giải pháp phù hợp để hoàn thiện những quy định của pháp luật về quản lý chất thải ở nước ta. Đề tài này đã vận dụng nhiều phương pháp khác nhau để nghiên cứu, trong đó hai phương pháp chính là phương pháp tổng hợp và phương pháp phân tích. Em đã tổng hợp những văn bản pháp luật và những tài liệu, thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu, sau đó tiến hành phân tích, đánh giá vấn đề này, cuối cùng là rút ra được một số kết luận và giải pháp chung về vấn đề quản lý chất thải bằng pháp luật trong thời kỳ hội nhập kinh tế ở Việt Nam.
NỘI DUNG CHÍNH
I/Khái quát chung:
1/ Hội nhập kinh tế và tình tình hội nhập kinh tế ở Việt Nam:
1.1/ Hội nhập kinh tế:
Trước hết ta cần làm rõ, “hội nhập kinh tế quốc tế” là quá trình các doanh nghiệp của một quốc gia tham gia một cách chủ động và tích cực vào nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan trong thế giới ngày nay khi làn sóng toàn cầu hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ. Nếu như toàn cầu hóa luôn có hai mặt tích cực và tiêu cực thì hội nhập kinh tế luôn mang theo mình những cơ hội và thách thức to lớn.
Hội nhập kinh tế quốc tế của các nền kinh tế chuyển đổi ( trong đó có Việt Nam) là quá trình thực hiện tự do hóa thương mại và thực hiện cải cách toàn diện theo hướng mở cửa thị trường. Từ đó đem lại nhiều cơ hội kinh tế như hàng hóa xuật nhập khẩu có thể tiếp cận thị trường tốt hơn, thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài trên mọi lĩnh vực kinh tế, môi trường... và nhiều lợi ích gián tiếp khác đi liền với cạnh tranh quốc tế gay gắt và tăng dần hiệu quả kinh tế theo quy mô.
1.2/ Tình hình hội nhập kinh tế ở Việt Nam:
Ngày 27/11/2001, Bộ chính trị ban hành nghị quyết về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết này đã kế thừa, cụ thể hóa và triển khai các đường lối của Đảng đề ra từ trước tới nay, đồng thời đáp ứng được kịp thời những đòi hỏi khách quan của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Sau khi đánh giá những thành tựu quan trọng của đất nước ta trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đôi ngoại, Nghị quyết đã chỉ rõ mục tiêu, những quan điểm chỉ đạo và một số nhiệm vụ cụ thể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhờ vào những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước nên trong những năm qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng bị bao vây cấm vận, cô lập, tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của nước ta trên chính trường và thương trường thế giới. Cho đến nay, Việt Nam đã ký với nước ngoài nhiều hiệp định thương mại song phương, nhiều hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, các hiệp định chống đánh thuế hai lần với các nước và các vùng lãnh thổ... Việt Nam còn đặt quan hệ với trên 160 nước và các nên kinh tế, thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế, là thành viên của ASEAN, ASEM, APEC, WTO... Ta đã thực hiện thành công chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tỉ lệ GDP hàng năm tăng... Ngoài ra, nhờ có quá trình hội nhập kinh tế, các lĩnh vực khác như môi trường, văn hóa... cũng có những bước phát triển mạnh.
Tuy vậy, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam vẫn còn những nhân tố hạn chế. Bên cạnh đó, nhiều ngành, cấp và doanh nghiệp còn chưa nhận thức đầy đủ, những cơ hội và thách thức của tiến trình hội nhập này cũng chưa thực sự nắm vững để có kế hoạch chủ động nắm bắt thời cơ, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn ít hiểu biết về lộ trình và các yêu cầu của hội nhập. Đa số vẫn trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước. Hệ thống pháp luật và chính sách quản lý nền kinh tế thị trường không đồng bộ, còn thay đổi, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, do đó chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập về môi trường cũng như các lĩnh vực khác. Chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế, số vốn đầu tư... còn thiếu đồng bộ, nhất quán và chưa phù hợp với điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhìn chung còn yếu, các chính sách vĩ môi chưa tạo được động lực cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nâng cao năng lực cạnh tranh. Thêm vào đó, năng lực cán bộ làm công tác hội nhập kinh tế ở nước ta còn yếu, việc chỉ đạo và thực hiện quá trình hội nhập trên các lĩnh vực còn bất cập, chưa có những chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế cho cả giai đoạn dài với các lộ trình mở cửa trong từng lĩnh vực cụ thể.
Riêng đối với môi trường Việt Nam, có thế thấy rằng hiện nay Việt Nam đang trong thời kỳ tiến hành hội nhập kinh tế nên về cơ bản nền kinh tế đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, diện mạo đời sống xã hội bước đầu có chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Nhà nước và nhân dân đã có những quan tâm nhất định đến lĩnh vực môi trường, nhiều khoa học công nghệ tiến bộ được đưa vào áp dụng để nâng cao hiệu quả của quá trình này... Tuy nhiên, cùng với sự phát triển và mở rộng các khu công nghiệp, khu chế xuất thì lượng chất thải cũng không ngừng gia tăng cả về số lượng và chủng loại. Chúng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe con người. Theo dự đoán của Ngân hàng Thế giới (WB), với tốc độ gia tăng GDP như thời gian qua ( khoảng 7%/năm) thì mức độ ô nhiễm môi trường bởi chất thải của nước ta vào năm 2020 có thể sẽ gấp 4 - 5 lần hiện nay. Do đó trong thời gian tới, để có thể kiểm soát và kiềm chế sự ảnh hưởng của chất thải cần có một cơ chế quản lý chất thải nghiêm ngặt và chặt chẽ.
Như vậy ta có thế kết luận rằng, hội nhập kinh tế là nhu cầu nội sinh của bản thân nền kinh tế nước ta, chứ không phải do chúng ta bị o ép, bị bắt buộc. Thời cơ đang đến, yêu cầu của chính bản thân đòi hỏi, không còn sự lựa chọn nào ưu việt hơn. Vì vây, Việt Nam cần phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập dân chủ, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường. Hội nhập kinh tế là sự nghiệp của toàn dân, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo vì vậy Đảng và Nhà nước phải cùng kết hợp để đẩy mạnh phát triển kinh tế nhưng vẫn không quên nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong lành, khỏe mạnh.
2/ Chất thải và quản lý chất thải:
2.1/ Chất thải:
Theo điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005 thì “chất thải” là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt, hoặc các hoạt động khác. Như vậy, một vật có phải là chất thải hay không phụ thuộc vào ý chí của người sở hữu vật đó. Sự tồn tại của chất thải sẽ đồng nghĩa với nhu cầu loại bỏ nó hay biến đổi nó thành một dạng vật chất khác có ích cho đời sống con người. Ngoài ra, “chất thải” còn được định nghĩa là các chất hoặc các đồ vật mà người ta tiêu hủy, có ý định tiêu hủy hoặc phải tiêu hủy theo các điều khoản của luật lệ quốc gia(1). Như vậy có nghĩa là chất thải là sản phẩm phụ của các hoạt động của con người. Nó không còn giá trị sử dụng đối với con người và bị loại ra khỏi cuộc sống. Dù được định nghĩa bởi nhiều quan điểm khác nhau song về cơ bản có thể hiểu một cách khái quát chất thải là một dạng vật chất phức tạp, chứa đựng những yếu tố không có lợi cho sức khỏe và môi trường sống của con người. Do đó cần căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các loại chất thải để phân loại và áp dụng các biện pháp xử lý, kiểm soát chất thải phù hợp mang tính chuyên trách, nhằm loại bỏ khả năng gây hại của các loại chất thải.
Việc phân loại chất thải căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau. Cụ thể như:
Căn cứ vào nguồn phát sinh, chất thải gồm: chất thải sinh họat, chất thải y tế, chất thải công nghiệp.
Căn cứ vào trạng thái tồn tại, chất thải gồm: chất thải rắn (vỏ đồ hộp, thủy tinh, sắt vụn…), chất thải lỏng (nước thải…), chất thải khí (khói, khí thải từ những phương tiện giao thông, khu công nghiệp…)
Căn cứ vào mức độ ảnh hưởng tới sức khỏe con người và môi trường xung quanh, chất thải gồm: chất thải thông thường - mức độ độc hại thấp, không gây hưởng nhiều đến môi trường và sức khỏe con người; chất thải nguy hại - dễ cháy nổ, ngộ độc, ăn mòn, nguy hại cho môi trường và sức khỏe con người như: chất thải kim loại, chất thải y tế…
Chất thải có rất nhiều tác hại như: gây ô nhiễm môi trường đất, không khí, nước, biển…; tác động xấu đến sức khỏe con người gây nên những bệnh về hô hấp, tiêu hóa…; tác động đến đời sống kinh tế xã hội, làm mất mỹ quan, văn minh đô thị, giảm sự đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam…
2.2/ Quản lý chất thải
Sự gia tăng không ngừng của các loại chất thải đã trực tiếp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống con người và xã hội. Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã coi nhiệm vụ bảo vệ môi trường nói chung và quản lý chất thải nói riêng là 1 trong những yếu tố cơ bản trong chiến lược phát triển bền vững đất nước khi bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo điều 3 của Luật bảo vệ môi trường 2005 thì “quản lý chất thải” là họat động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy, thải loại chất thải. Còn theo Công ước Basel (1989) về kiểm soát, vận chuyển xuyên biên giới các chất thải nguy hại và tiêu hủy chúng thì “quản lý chất thải” là việc thu thập, vận chuyển và tiêu hủy các phế thải nguy hiểm hoặc các phế thải khác, bao gồm cả việc giám sát các địa điểm tiêu hủy. Như vậy, có thể hiểu quản lý chất thải nói chung là một quy trình khép kín và tuần tự, chúng luôn chịu sự giám sát chặt chẽ ở tất cả các khâu. Việc quản lý chất thải được thực hiện bởi nhiều hoạt động khác nhau. Những tác động này phải luôn đảm bảo có sự gắn kết, chặt chẽ và tuần tự nhằm tiêu hủy triệt để sự nguy hại của chất thải từ giai đoạn phát sinh đến giai đoạn xử lý và tiêu hủy hoàn toàn.
Quản lý chất thải có thể hiểu là một quá trình tổng hợp của nhiều hoạt động không tách rời, bao gồm:
Hoạt động thu gom chất thải: là việc thu gom, phân loại, đóng gói, lưu giữ tạm thời chất thải tại các địa điểm hoặc cơ sở đã được chấp nhận. Đây là giai đoạn đầu tiên, không thể thiếu trong quá trình quản lý chất thải, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển, lưu giữ và xử lý chất thải.
Hoạt động lưu giữ chất thải: là việc lưu giữ và bảo quản chất thải trong một thời gian nhất định với những điều kiện cần thiết để đảm bảo không rò rỉ, phát tán, thất thoát ra môi trường cho đến khi chất thải được vận chuyển đến các địa điểm hoặc cơ sở tiêu hủy được chấp nhận. Hoạt động này nhằm ngăn ngừa và hạn chế tình trạng chứa đựng chất thải một cách tùy tiện. Yêu cầu của hoạt động này đòi hỏi các chủ thể có liên quan phải tuyệt đối tuân thủ để phòng tránh sự cố môi trường có thể xảy ra.
Hoạt động vận chuyển chất thải: là quá trình chuyên chở chất thải từ nơi phát sinh đến nơi lưu giữ, xử lý, tiêu hủy chất thải. Đây là giai đoạn cần thiết để quá trình kiểm soát chất thải được triệt để và chặt chẽ hơn.
Hoạt động xử lý chất thải: là quá trình sử dụng công nghệ hoặc biện pháp kỹ thuật (kể cả việc thu hồi, tái chế, tái sử dụng, thiêu đốt chất thải) làm thay đổi các tính chất và thành phần của chất thải nhằm làm mất hoặc giảm mức độ gây nguy hại đối với môi trường và sức khỏe con người. Đây là giai đoạn quan trọng nhất nhằm vận dụng những biện pháp thích hợp để xử lý chất thải nhằm loại bỏ.
Hoạt động tiêu hủy chất thải: là quá trình sử dụng công nghệ nhằm cô lập (bao gồm cả chôn lấp) chất thải làm mất khả năng gây nguy hại đối với môi trường và sức khỏe con người. Đây là giai đoạn cuối cùng và có ý nghĩa quyết định trong hoạt động kiểm soát, quản lý chất thải nhằm loại bỏ hoàn toàn tính chất nguy hại của chất thải.
Tất cả những hoạt động trên đều có mối quan hệ mật thiết với nhau. Như vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc quản lý chất thải đã và đang trở thành một nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Trên cơ sở vì một môi trường sạch đẹp, phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước, các tổ chức và cá nhân trong phạm vi chức năng và quyền hạn của mình cần nghiên cứu và lựa chọn những biện pháp quản lý chất thải phù hợp.
II/ Thực trạng chất thải và pháp luật quản lý chất thải trong thời kỳ hội nhập kinh tế ở Việt Nam:
1/ Thực trạng chất thải trong thời kỳ hội nhập kinh tế ở Việt Nam:
Những năm trở lại đây, cùng với sự phát triển cao hơn của đời sống kinh tế xã hội , vấn đề chất thải đã được quan tâm và đầu tư thích đáng hơn. Những biện pháp kiểm soát chất thải cơ bản đã có nhiều thành công đáng kể. Tuy nhiên, tất cả những cố gắng đó mới chỉ đạt được một phần rất nhỏ so với nhu cầu đặt ra. Trên thực tế, thực trạng chất thải đang là một vấn đề đáng lo ngại hiện nay ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác. Số lượng chất thải đã và đang không ngừng tăng lên cả về chất lượng và chủng loại trong khi quy trình kiểm soát chât thải còn có nhiều điểm bất cập và thiếu triệt để.
Theo thống kê, mỗi năm Việt Nam thải ra trên 15 triệu tấn chất thải, trung bình là 49134 tấn/ ngày bao gồm: Chất thải công nghiệp là 26877 tấn/ ngày, chất thải sinh hoạt là 21220 tấn/ ngày, chất thải y tế là 240 tấn/ ngày, cùng hàng nghìn m3 nước thải và khí thải từ các nhà máy, xí nghiệp, công trường, bệnh viện... thải ra môi trường(2).Phần lớn chúng đều chưa được xử lý và trở thành nguy cơ lớn tới sức khỏe và môi trường sống hiện nay. Theo số liệu của WB cung cấp, ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh chỉ chiếm 24% tổng dân số nhưng lại có đến hơn 6 triệu tấn chất thải mỗi năm, bằng gần 50% lượng chất thải có trong cả nước.
Lượng chất thải phát sinh trong thời kỳ hội nhập kinh tế vẫn không ngừng tăng lên song việc thu gom còn chưa được thực hiện toàn diện. Khối lượng chất thải được xử lý hầu như không đáng kể. Theo WB thì chỉ có gần 3/4 lượng rác thải ở các đô thị và 1/5 lượng rác thải ở nông thôn được thu gom, chỉ có khoảng 1/5 số điểm tiêu hủy rác trên cả nước là hợp vệ sinh còn chủ yếu là các bãi chôn lấp được vận hành không đúng kỹ thuật. Hình thức tiêu hủy rác thải chủ yếu là đổ ở các bãi rác lộ thiên rồi đem đốt, gây ô nhiễm môi trường cho vùng dân cư xung quanh. Bên cạnh đó, nước ta còn thiếu những hệ thống xử lý chất thải công nghiệp nguy hại và các cơ chế khuyến khích việc thực hiện những biện pháp tiêu hủy an toàn.
Ngoài ra, lượng khí thải trên đất nước ta khi phát sinh đều chưa được qua bất kỳ một khâu xử lý nào khiến cho môi trường không khí bị ô nhiễm nặng nề. Không khí chủ yếu bị ô nhiễm bụi, nồng độ bụi trung bình một ngày thường vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 3 lần. Nhiều nơi bị ô nhiễm ở mức độ nghiêm trọng như: khu dân cư gần nhà mày ximăng Hải Phòng, nhà máy tuyển than Hòn Gai... Tại nhiều khu dân cư gần các khu công nghiệp lớn, nồng độ khí sulfure gấp chỉ số tiêu chuẩn nhiều lần như: khu dân cư gần nhà máy ximăng Hải Phòng (gấp 1,4 lần tiêu chuẩn cho phép), cụm công nghiệp Tân Bình (gấp 1,1 lần tiêu chuẩn cho phép). Tại các làng nghề thủ công sản xuất nhựa, gốm, sứ, vật liệu xây dựng... mức độ ô nhiễm không khí đang ở mức báo động như làng gốm sứ Bát Tràng có nồng độ khí độc hại lớn hơn chỉ tiêu cho phép từ 1,8 đến 2 lần, làng Đông Mai (Hưng Yên) có nồng độ bụi chì vượt quá mức tiêu chuẩn tới 4600 lần(3). Mặt khác, nước thải cũng đang là một vấn đề bức xúc hiện nay. Nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất chưa có trạm xử lý nước thải. Hàng nghìn m3 nước thải có chứa các chất độc hại được thải trực tiếp ra sông ngòi gây ô nhiễm nghiêm trọng. Ngoài ra, nước thải bệnh viện cũng chưa được xử lý, như tại Hà Nội mỗi ngày có hàng trăm nghìn m3 nước thải nhưng hệ thống xử lý chỉ đáp ứng được 25% tổng số nước thải đó.
Như vậy, cùng với sự phát triển đáng kể của nền kinh tế, thực trạng chất thải đang là một vấn đề bức xúc hiện nay, đặc biệt là tại các thành phố lớn có mật độ dân số cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng...
Tìm hiểu về thực trạng chất thải ở Việt Nam hiện nay, ta có thể rút ra được một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng ô nhiễm nặng nề do chất thải này, cụ thể là:
Do những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Cùng với sự phát triển và mở rộng của các cơ sở sản xuất kinh doanh, khu công nghiệp, khu chế xuất, các loại chất thải ngày càng tăng lên trong khi hầu hết các quá trình quản lý chất thải tại Việt Nam chưa được đầu tư đúng mức, những giải pháp để quản lý và kiểm soát chất thải