Thuật ngữ “Bảo hộ lao động” dưới góc độ khoa học được hiểu là tổng thể các biện pháp bảo đảm cho người lao động làm việc được an toàn, không nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, là yêu cầu đồng thời cũng là hướng chủ yếu nhằm hoàn thiện việc tổ chức lao động khoa học, làm cho người lao động yên tâm, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác.
Bảo hộ lao động còn được hiểu là hệ thống các giải pháp về pháp luật, khoa học kỹ thuật, kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm an toàn và sức khỏe của con người trong quá trình lao động sản xuất. Nội dung bao gồm 3 vấn đề:
Một là, xây dựng, ban hành và giảm sát việc thực hiện hệ thống pháp luật về bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động, hệ thống các tiêu chuẩn giới hạn cho pháp luật của các yếu tố điều kiện lao động, hệ thống các quy phạm an toàn trong lao động – sản xuất và các chính sách chế độ bồi dưỡng sức khỏe, chăm sóc y tế cho những người lao động phải làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, kém hấp dẫn.
Hai là, bảo đảm tính đồng bộ và tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về An toàn, vệ sinh lao động trong toàn bộ quá trình thiết kế, vận chuyển, lắp đặt, vận hành và bảo quản nhà xưởng, quy trình công nghệ, máy móc thiết bị, vật tư, nhiên liệu, năng lượng sử dụng trong quá trình lao động.
Ba là, không ngừng nâng cao hiểu biết và nhận thức của người sử dụng lao động và người lao động về an toàn, vệ sinh lao động bằng cách tuyển chọn, tuyên truyển giáo dục, hướng dấn, đào tạo thường xuyên, luyện tập các phương pháp phòng chống các sự cố trong sản xuất.
Bên cạnh đó, dưới góc độ pháp lý, bảo hộ lao động được hiểu là chế định bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, xác định các điều kiện lao động an toàn và vệ sinh có tính chất bắt buộc, các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn hoặc khắc phục những yếu tố nguy hiểm, độc hại trong môi trường lao động nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân cách người lao động.
Theo nghĩa rộng, bảo hộ lao động được hiểu là tổng hợp các quy định về việc bảo vệ (bảo hộ) người lao động khi tham gia quá trình lao động, nhằm đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của người lao động. Theo nghĩa này, các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo vệ tính mạng, sức khỏe người lao động trong quan hệ lao động chỉ là bộ phận trong số các quy định về bảo hộ lao động.
Theo nghĩa hẹp, bảo hộ lao động được hiểu là những quy định của Nhà nước liên quan đến việc đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động và các chế độ lao động khác nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe và trong một số trường hợp nhằm bảo vệ nhân cách của người lao động.
Trên cơ sở những vấn đề nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về chế độ bảo hộ lao động như sau: chế độ bảo hộ lao động là tập hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, quy định các điều kiện an toàn, vệ sinh lao động có tính chất bắt buộc; các biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân cách của người lao động và giải quyết hậu quả do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp gây ra đối với người lao động. Pháp luật bảo hộ lao động bao gồm các bộ phận cấu thành sau: những quy định về việc đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động, những biện pháp hạn chế ảnh hưởng của các yếu tố nguy hiểm, độc hại trong quá trình lao động, các quy định về việc khắc phục hậu quả của tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, quyền và nghĩa vụ của các bên trong lĩnh vực bảo hộ lao động, công tác thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hộ lao động.
55 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3282 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về bảo hộ lao động – so sánh giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ LAO ĐỘNG
I-Khái niệm bảo hộ lao động:
1-Một số khái niệm liên quan:
1.1-Khái niệm bảo hộ lao động:
Thuật ngữ “Bảo hộ lao động” dưới góc độ khoa học được hiểu là tổng thể các biện pháp bảo đảm cho người lao động làm việc được an toàn, không nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, là yêu cầu đồng thời cũng là hướng chủ yếu nhằm hoàn thiện việc tổ chức lao động khoa học, làm cho người lao động yên tâm, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác.
Bảo hộ lao động còn được hiểu là hệ thống các giải pháp về pháp luật, khoa học kỹ thuật, kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm an toàn và sức khỏe của con người trong quá trình lao động sản xuất. Nội dung bao gồm 3 vấn đề:
Một là, xây dựng, ban hành và giảm sát việc thực hiện hệ thống pháp luật về bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động, hệ thống các tiêu chuẩn giới hạn cho pháp luật của các yếu tố điều kiện lao động, hệ thống các quy phạm an toàn trong lao động – sản xuất và các chính sách chế độ bồi dưỡng sức khỏe, chăm sóc y tế cho những người lao động phải làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, kém hấp dẫn.
Hai là, bảo đảm tính đồng bộ và tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về An toàn, vệ sinh lao động trong toàn bộ quá trình thiết kế, vận chuyển, lắp đặt, vận hành và bảo quản nhà xưởng, quy trình công nghệ, máy móc thiết bị, vật tư, nhiên liệu, năng lượng sử dụng trong quá trình lao động.
Ba là, không ngừng nâng cao hiểu biết và nhận thức của người sử dụng lao động và người lao động về an toàn, vệ sinh lao động bằng cách tuyển chọn, tuyên truyển giáo dục, hướng dấn, đào tạo thường xuyên, luyện tập các phương pháp phòng chống các sự cố trong sản xuất.
Bên cạnh đó, dưới góc độ pháp lý, bảo hộ lao động được hiểu là chế định bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, xác định các điều kiện lao động an toàn và vệ sinh có tính chất bắt buộc, các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn hoặc khắc phục những yếu tố nguy hiểm, độc hại trong môi trường lao động nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân cách người lao động.
Theo nghĩa rộng, bảo hộ lao động được hiểu là tổng hợp các quy định về việc bảo vệ (bảo hộ) người lao động khi tham gia quá trình lao động, nhằm đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của người lao động. Theo nghĩa này, các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo vệ tính mạng, sức khỏe người lao động trong quan hệ lao động chỉ là bộ phận trong số các quy định về bảo hộ lao động.
Theo nghĩa hẹp, bảo hộ lao động được hiểu là những quy định của Nhà nước liên quan đến việc đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động và các chế độ lao động khác nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe và trong một số trường hợp nhằm bảo vệ nhân cách của người lao động.
Trên cơ sở những vấn đề nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về chế độ bảo hộ lao động như sau: chế độ bảo hộ lao động là tập hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, quy định các điều kiện an toàn, vệ sinh lao động có tính chất bắt buộc; các biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân cách của người lao động và giải quyết hậu quả do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp gây ra đối với người lao động. Pháp luật bảo hộ lao động bao gồm các bộ phận cấu thành sau: những quy định về việc đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động, những biện pháp hạn chế ảnh hưởng của các yếu tố nguy hiểm, độc hại trong quá trình lao động, các quy định về việc khắc phục hậu quả của tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, quyền và nghĩa vụ của các bên trong lĩnh vực bảo hộ lao động, công tác thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hộ lao động.
1.2-Khái niệm an toàn lao động:
An toàn lao động được hiểu là “Tình trạng điều kiện lao động không gây ra sự nguy hiểm trong sản xuất”. TCVN 3153-79, tr1/5
Dưới góc độ pháp lý “An toàn lao động” là tổng hợp những quy phạm của Nhà nước quy định về các biện pháp bảo đảm an toàn lao động nhằm ngăn ngừa tai nạn lao động và khắc phục những hậu quả của tai nạn lao động, cải thiện điều kiện lao động cho người lao động”. Như là một chế định của Bộ luật Lao động, an toàn lao động chủ yếu bao gồm bốn nhóm quy định sau:
Nhóm quy định về an toàn lao động.
Nhóm quy định về tai nạn lao động.
Nhóm quy định về các quyền và nghĩa vụ của các bên trong an toàn lao động.
Nhóm quy định đối với một số loại lao động có đặc điểm riêng.
1.3-Khái niệm vệ sinh lao động:
Vệ sinh lao động được hiểu là “tổng thể các tiêu chuẩn môi trường lao động (ánh sang, chống bụi, nóng lạnh, gió, tiếng ồn, độ ẩm…); bảo hộ an toàn lao dộng, trang thiết bị bảo hộ lao động, máy móc, thiết bị sản xuất, chế độ ăn uống tối ưu thích hợp lao động với mỗi loại lao động; vệ sinh cá nhân của người lao động; nhà ở và các tiện nghi sinh hoạt; quản lý sức khỏe cho người lao động và gia đình,…” Từ điển bách khoa Việt Nam tập 4, NXB Từ điển Bách khoa Hà Nội 2005, tr 850
Như là một chế định của Bộ luật Lao động, Vệ sinh lao động chủ yếu gồm bốn nhóm quy định sau:
Nhóm quy định về Vệ sinh lao động.
Nhóm quy định về Bệnh nghề nghiệp.
Nhóm quy định về các quyền và nghĩa vụ của các bên trong an toàn-vệ sinh lao động.
Nhóm quy định đối với một số loại lao động có đặc điểm riêng.
II-Đặc điểm của bảo hộ lao động:
Thứ nhất, bảo hộ lao động là hoạt động mang tính chất kỹ thuật đặc thù do sự phát triển của bảo hộ lao động luôn gắn liền với công nghệ sản xuất. Việc khắc phục những yếu tố nguy hiểm, độc hại trong quá trình lao động phải gắn liền với việc thực hiện các biện pháp mang tính khoa học – kỹ thuật. Vì vậy, các quy phạm pháp luật về bảo hộ lao động không chỉ mang tính chất pháp lý thuần túy mà còn có tính chất kỹ thuật. Các tiêu chuẩn an toàn lao động và vệ sinh lao động (như ánh sáng, độ ẩm, tiếng ồn, nồng độ bụi…) được quy định trong các văn bản pháp luật và bắt buộc thực hiện đối với các doanh nghiệp đều là kết quả nghiên cứu của ngành khoa học bảo hộ lao động và của nhiều ngành khoa học khác, được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật có tính chất bắt buộc.
Thứ hai, phần lớn các quy định về bảo hộ lao động hoặc liên quan tới hoạt động bảo hộ lao động đều có tính chất “bắt buộc cứng” nhằm hạn chế những hậu quả nghiêm trọng của việc không tuân thủ đúng các quy trình an toàn, vệ sinh lao động. Trừ một số quy định có thể thỏa thuận nhưng không thấp hơn mức tối thiểu do pháp luật quy định (như vấn đề bồi dưỡng bằng hiện vật hay phụ cấp nặng nhọc, độc hai…). Đa số các quy định về bảo hộ lao động đều bắt buộc các chủ thể phải thực hiện đúng các thông số kỹ thuật an toàn, vệ sinh lao động cho phép. Việc không thực hiện đúng và đầy đủ các quy định bị coi là vi phạm pháp luật và phải chịu các chế tài tương ứng.
Thứ ba, bảo hộ lao động là hoạt động được thực hiện bởi đông đảo người lao động và người sử dụng lao động. Người lao động trực tiếp làm việc và tiếp xúc với các máy móc, thiết bị trong quá trình lao động nên họ là người có khả năng phát hiện các yếu tố nguy hiểm, độc hại, đề xuất hoặc tự mình giải quyết để phòng ngừa các tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Do đó, cần vận động, tổ chức, thu hút sự tham gia đông đải của người lao động và người sử dụng lao động trong việc tiến hành các hoạt động bảo hộ lao động. Bên cạnh quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động, pháp luật cần xác định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội nghề nghiệp có liên quan trong lĩnh vực bảo hộ lao động.
III-Tính tất yếu khách quan của chế độ bảo hộ lao động:
1-Bảo hộ lao động là một nhiệm vụ chính trị quan trọng:
Bảo hộ lao động tốt là thiết thực bảo vệ giai cấp công nhân. Dưới chế độ cũ giai cấp công nhân bị bóc lột, bị đối xử thậm tệ, bị coi rẻ. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân được hoàn toàn giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột, đã trở thành giai cấp lãnh đạo, thành những người chủ đất nước. Nếu để lực lượng công nhân bị hao mòn, nhiều người lao động sớm bị loại, nằm ngoài sản xuất thì việc xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, công nhân truyền thống sẽ khó khăn.
Thể hiện quan điểm coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Một đất nước có tỷ lệ tai nạn lao động thấp, người lao động khoẻ mạnh, không mắc bệnh nghề nghiệp là một xã hội luôn coi con người là vốn quý nhất. Ngược lại, nếu công tác bảo hộ lao động không được thực hiện tốt, điều kiện lao động quá nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại, dễ xảy ra nhiều tai nạn lao động nghiêm trọng thì uy tín của chế độ, của doanh nghiệp sẽ bị giảm sút.
2-Bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động là yêu cầu thiết yếu của sản xuất:
Trong sản xuất nếu người lao động được làm việc trong điều kiện an toàn và vệ sinh thì họ luôn an tâm, thoải mãi, phấn khởi sản xuất, do đó sẽ có ngày công, giờ công cao dẫn đến năng suất lao động cao, kế hoạch sản xuất sẽ được hoàn thành tốt. Vì vậy phúc lợi tập thể tăng lên, có thêm điều kiện để cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của cá nhân và đơn vị. Nó còn có tác dụng tích cực bảo đảm đoàn kết nội bộ để đẩy mạnh sản xuất.
Ngược lại nếu môi trường làm việc có nhiều yếu tố độc hại, nguy hiểm, dễ xảy ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì sẽ gây ra nhiều hiệu quả cho sản xuất.
Ví dụ giảm sút hoặc và suy yếu lực lượng lao động. Người bị tai nạn, ốm đau sẽ phải nghỉ việc để cứu chữa, điều trị nên ngày công lao động giảm; nếu bị tàn phế, mất sức thì khả năng lao dộng đã giảm, lại làm cho xã hội phải lo thêm gánh nặng, nếu có tai nạn chết thì mất hẳn người lao động và những người có liên quan cũng mất một số thời gian lao động. Bên cạnh đó chi phí về các thiệt hại do tai nạn, ốm đau, điều trị, cứu chữa rất lớn. Ngoài ra sẽ kéo theo một số thiệt hại khác như hư hỏng máy móc, nhà xưởng, nguyên liệu v.v…
Tóm lại, tai nạn bệnh tật xảy ra dù nhiều hay ít đều dẫn tới mất người, mất của và gây trở ngại cho sản xuất, kinh doanh. Cho nên quan tâm, thực hiện tốt Bảo hộ lao động là thể hiện quan điểm sản xuất đầy đủ, là điều kiện bảo đảm sản xuất phát triển và đem lại hiệu quả kỹ thuật cao trong sản xuất.
3-Bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động là biện pháp thiết thực chăm lo đến hạnh phúc, đến đời sống của người lao động:
Đây là yêu cầu thiết thân của quần chúng lao động, bất kể người lao động nào cũng vậy, trong quá trình lao động sản xuất, không ai muốn mình phải chịu rủi ro, tai nạn, bệnh tật, tàn phế hay thiệt hại về tính mạng do tai nạn lao động gây nên. Người lao động nào cũng muốn đời sống của mình, gia đình mình hạnh phúc, đó là nhu cầu, ước vọng thuần túy, vốn có của con người, và đó cũng là một trong những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Bằng cách nào đó để vừa động viên khuyến khích người lao động hăng say sản xuất, làm ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, vừa bảo vệ sức khỏe, thân thể lành mạnh, thể lực duy trì, tình cảm, hạnh phúc gia đình được đảm bảo tránh để xẩy ra những tình cảnh đau thương tang tóc cho vợ, chồng, con cái người lao động do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp gây nên.
4-Cải thiện điều kiện lao động có ý nghĩa và lợi ích to lớn:
Cả Việt Nam và Lào đều có xuất phát điểm từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu; sẽ không tránh khỏi có hàng triệu người lao động hiện nay phải lao động trong điều kiện lao động khắc nghiệt, ở nhiều nơi tới mức báo động, đồng thời có những nơi gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Hậu quả này tác động xấu tới con người nói chung và người lao động nói riêng dưới nhiều góc độ khác nhau: không chỉ riêng sức khỏe mà cả tinh thần, không chỉ trong lao động mà còn cả ngoài giờ lao động, không chỉ riêng thế hệ đương thời mà còn ảnh hưởng tới thế hệ tương lai.
Điều kiện lao đôn có vai trò quan trọng trong nền sản xuất xã hội, sản xuất vật chất và sản xuất con người.
Trong sản xuất vật chất, điều kiện lao động được hình thành phụ thuộc trực tiếp vào mối quan hệ kinh tế và cơ sở kỹ thuật của sản xuất.
Cũng trong sản xuất vật chất, điều kiện lao động ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe, tinh thần, niềm tin của người lao động.
Đề nhìn nhận vị trí và tầm quan trọng của điều kiện trong sản xuất, trong phát triển kinh tế xã hội phải xét nó trong qúa trình phát tiển bền vững-sự phát triển cân đối giữa 3 yếu tố: Kinh tế-Xã hội-Môi trường.
Điều kiện lao động cùng một lúc tác động lên cả 3 yếu tố phát triển bền vững.
IV-Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về bảo hộ lao động:
1-Nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lí các hoạt động bảo hộ lao động:
Xuất phát từ tầm quan trọng của Bảo hộ lao động, Nhà nước xác định việc thống nhất quản lí các hoạt động bảo hộ lao động là nhiệm vụ chủ yếu của công tác quản lí nhà nước trong lĩnh vực lao động. Sự tham gia quản lí thống nhất của nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong việc thực hiện bảo hộ lao động góp phần bảo hộ khả năng thực thi của pháp luật và bảo vệ sức khoẻ người lao động.
Vai trò của Nhà nước trong việc thống nhất quản lí hoạt động bảo hộ lao động thể hiện ở việc Nhà nước lập chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, ban hành các văn bản pháp luật, đầu tư nghiên cứu khoa học về bảo hộ lao động, hỗ trợ phát triển các cơ sở sản xuất trang thiết bị an toàn, vệ sinh lao động. Đặc biệt, vai trò quản lí của Nhà nước thể hiện rõ trong việc ban hành các văn bản pháp luật về bảo hộ lao động, hướng dẫn thực hiện, thanh tra và xử lí vi phạm pháp luật. Phần lớn các qui định về an toàn, vệ sinh lao động và việc đảm bảo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động do Nhà nước ban hành đều là các qui định cần được thực hiện nghiêm chỉnh tại các doanh nghiệp. Nhà nước cũng có kế hoạch hỗ trợ các doanh nghiệp khi thực hiện các biện pháp bảo hộ lao động nhằm giảm bớt chi phí tài chính cho doanh nghiệp và tăng tính chuyên nghiệp của các hoạt động bảo hộ lao động. Sự hỗ trợ của Nhà nước chủ yếu là tổ chức nghiên cứu, ứng dụng kĩ thuật bảo hộ lao động, sản xuất các trang thiết bị an toàn, vệ sinh lao động. Trách nhiệm của các đơn vị là đầu tư kinh phí cho công tác đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động và thực hiện đúng các qui định pháp luật về bảo hộ lao động.
2- Nguyên tắc thực hiện BHLĐ là nghĩa vụ bắt buộc đối với các bên trong quan hệ lao động:
Bảo hộ lao động là hoạt động mang tính xã hội. Thiếu sự tham gia của cá nhân, đơn vị và tổ chức, công tác bảo hộ lao động không thể triển khai trong thực tế. Đặc biệt, sự tham gia của các bên trong quan hệ lao động là điều kiện tiên quyết đảm bảo hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hộ lao động. Vì vậy, nguyên tắc đảm bảo nghĩa vụ bắt buộc của các bên trong việc thực hiện bảo hộ lao động là điều kiện quan trọng để nâng cao tính khả thi của pháp luật.
Người sử dụng lao động là người đầu tư kinh phí và tổ chức các hoạt động bảo hộ lao động tại cơ sở. Xét về lợi ích trước mắt, hoạt động này ảnh hưởng đến lợi nhuận. Nhưng về lâu dài, bảo hộ lao động mang đến những lợi ích quan trọng như ổn định sản xuất, tăng năng suất lao động, công nhân yên tâm làm việc, giảm chi phí khắc phục tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Không phải mọi chủ sử dụng lao động đều ý thức được vấn đề này. Do đó, Nhà nước nhấn mạnh tính chất bắt buộc trong việc thực hiện các qui định về bảo hộ lao dodọng, coi đây là nghĩa vụ của người sử dụng lao động và là một trong những điều kiện để họ được phép sử dụng lao động.
Người lao động là một bên trong quan hệ lao động, là người hưởng lợi trực tiếp từ việc thực hiện bảo hộ lao động. Nhưng do chưa nhận thức được vấn đề này một cách nghiêm túc, đôi khi người lao động không tự giác tuân thủ các qui trình an toàn, vệ sinh lao động; hoặc vì những lợi ích trước mắt (như lương cao, chế độ phụ cấp kèm theo lương) mà bỏ qua việc thoả thuận “ điều kiện làm việc “ khi kí kết hợp đồng lao động. Vì vậy, các qui định về bảo hộ lao động cũng đề cập trách nhiệm của người lao động trong việc thực hiện các qui trình an toàn, vệ sinh lao động, coi đây là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi người lao động khi tham gia quá trình sản xuất.
3- Nguyên tắc thực hiện bảo hộ lao động toàn diện và đồng bộ:
Trong quá trình lao động thường tiềm ẩn các yếu tố nguy hiểm, nặng nhọc, độc hại. Nếu không thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp có thể xảy ra bất kì lúc nào, tại bất cứ giai đoạn nào của quá trình lao động. Vì thế, cần đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động từ khi thiết kế, lắp đặt, vận hành, bảo quản cho đến khi thanh lí các trang thiết bị, máy móc, dây chuyền phục vụ sản xuất. Các biện pháp đảm bảo an toàn, bảo vệ tính mạng, sức khỏe và nhân cách của con người cần được thực hiện ở mọi nơi diễn ra hoạt động lao động. Thực hiện bảo hộ lao động một cách đồng bộ và toàn diện vì thế được coi là nguyên tắc cơ bản của pháp luật.
Nguyên tắc này đòi hỏi bảo hộ lao động phải được thực hiện đầy đủ, tuân thủ đúng các tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động do Nhà nước qui định. Chỉ cần thiếu đi một vài phương tiện đảm bảo an toàn, vệ sinh hay bỏ qua một số thao tác đơn giản, những hậu qủa nghiêm trọng có thể xảy ra. Vì vậy, nguyên tắc thực hiện bảo hộ lao động toàn diện và đồng bộ là vấn đề cần được đảm bảo trong suất quá trình lao động.
CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ LAO ĐỘNG – SO SÁNH GIỮA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT LÀO
I-Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bảo hộ lao động:
1-Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam:
1.1-Các văn bản luật:
+Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ban hành năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung theo Nghị quyết số: 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10)
Trong đó, Điều 56 của Hiến pháp quy định: Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động.
Các Điều 39, 61, 63 quy định các nội dung khác về bảo hộ lao động.
+Bộ Luật lao động của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1995 quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động, góp phần thúc đẩy sản xuất.
Trong bộ Luật lao động Việt Nam có những chương liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động:
- Chương VII : Quy định thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi.
- Chương IX : Quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
- Chương X : Những quy định riêng đối với lao động nữ.
- Chương XI : Những quy định riêng đối với lao động chưa thành niên và một số lao động khác.
- Chương XII : Những quy định về bảo hiểm xã hội.
- Chương XVI : Những quy định về thanh tra Nhà nước về lao động, xử phạt vi phạm pháp luật lao động.
+Một số luật, có liên quan đến an toàn vệ sinh lao động
- Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, ban hành năm 1989:
Quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động phải chăm lo, bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho người lao động.
Phải tạo điều kiện cho người lao động được điều dưỡng, nghỉ ngơi, phục hồi chức năng lao động.
Phải thực hiện đúng các tiêu chuẩn vệ sinh lao động, phải tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho người lao động
Nghiêm cấm việc làm ô nhiễm các nguồn nước sinh hoạt, tránh làm ô nhiễm đất, nước và không khí...
- Luật bảo vệ môi trường, ban hành năm 2005:
Luật này quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo vệ môi trường; trong đó có cả các vấn đề liên quan tới môi trường lao động, an toàn lao động.
-Luật c