Trong thời đại ngày nay, bất kì quốc gia có nền kinh tế phát triển nào cũng có 2 kênh huy động vốn quan trọng: kênh huy động vốn gián tiếp thông qua hệ thống ngân hàng theo nguyên tắc tín dụng và kênh huy động vốn trực tiếp thông qua TTCK theo nguyên tắc đầu tư. Hiện nay chúng ta không thể phủ nhận vai trò của TTCK đối với sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia. TTCK phản ánh rõ nét nhất các qui luật của nền kinh tế thị trường. Người ta ví TTCK như chiếc nhiệt kế đo “nhiệt độ” của nền kinh tế. Sự tăng trưởng của nền kinh tế được đánh giá qua chỉ số giá chứng khoán của TTCK. Lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường ở các quốc gia phát triển đã khẳng định TTCK ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình vận hành nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như trong hệ thống kinh tế toàn cầu[37, tr.1]. Đối với Việt Nam, để hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính, tạo các tiền đề kinh tế quan trọng, đưa đất nước ta đến năm 2020 cơ bản là một nước công nghiệp như Đại hội Đảng VIII đã đề ra thì việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính trong đó có TTCK là hết sức cần thiết.
Ra đời và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 28/7/2000, TTCK Việt Nam đang có những bước tiến vững chắc, nhằm khẳng định vai trò là công cụ hiệu quả để huy động và phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Việc huy động vốn qua TTCK được thực hiện thông qua hoạt động chào bán chứng khoán dưới 2 hình thức chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ. Chào bán chứng khoán là một trong những hoạt động đầu tiên và quan trọng nhất trong tất cả các hoạt động diễn ra trên TTCK. Bởi nó không chỉ góp phần huy động vốn, tăng vốn cho DN mà còn tạo ra hàng hóa cho TTCK, quyết định sự tồn tại của TTCK. Riêng đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ với các quy định về điều kiện thủ tục chào bán dễ dàng, đối tượng chào bán rộng đang là phương thức huy động vốn hữu hiệu của các DN, đặc biệt là DN vừa và nhỏ. Ở nước ta, với nền kinh tế có hơn 2/3 DN vừa và nhỏ, chưa đáp ứng được điều kiện để niêm yết trên sàn giao dịch, thì đây là cách huy động vốn hiệu quả nhất. Đồng thời, việc tiến hành chào bán chứng khoán riêng lẻ sẽ góp phần giúp các DN đổi mới hình thức quản lý, quản trị DN, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tuy nhiên, nếu hoạt động chào bán này không được quản lý tốt bằng pháp luật sẻ có tác động xấu, gây khủng hoảng cho TTCK, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư và ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi pháp luật chứng khoán đang trong quá trình hoàn thiện. Hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ vẫn chưa thực sự được quan tâm và giám sát đúng mức. Điều này đã gây ra nhiều bất ổn cho TTCK trong thời gian qua cả về mặt lý luận và thực tiễn như: các vụ việc xâm phạm quyền lợi của các cổ đông hiện hữu khi chào bán chứng khoán riêng lẻ hay các văn bản pháp luật ban hành không rõ ràng khiến cho các DN cũng như cơ quan áp dụng pháp luật lúng túng trong quá trình thực hiện. Điều này đã làm chậm tiến độ huy động vốn của các DN, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế chung của cả nước. Hay sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của DN diễn ra đúng pháp luật, TTCK vận hành an toàn. Vấn đề nghiên cứu pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc làm cần thiết. Từ nhận thức đó, tôi chọn đề tài: “Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ và thực trạng tại Việt Nam”.
81 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3543 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ và thực trạng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CPH: Cổ phần hoá.
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước.
NHTM: Ngân hàng thương mại.
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần.
TTCK: Thị trường chứng khoán.
TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán.
DN: Doanh nghiệp
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
Nghị định 01: Nghị định 01/2010/NĐ-CP
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU Trang 5
1. Tính cấp thiết của đề tài 5
2. Mục đích nghiên cứu 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
4. Phương pháp nghiên cứu 7
5. Bố cục đề tài 8
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ VÀ PHÁP LUẬT CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ 9
1.1 Khái niệm chứng khoán, khái niệm chào bán chứng khoán và chào bán chứng khoán riêng lẻ 9
Khái niệm chứng khoán và phân loại chứng khoán 9
1.1.1.1. Khái niệm chứng khoán 9
1.1.1.2. Đặc điểm chứng khoán 11
1.1.1.3. Phân loại chứng khoán 13
1.1.2. Khái niệm chào bán chứng khoán và phương thức chào bán chứng khoán 14
1.1.2.1. Khái niệm chào bán chứng khoán 14
1.1.2.2. Phương thức chào bán chứng khoán 15
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 18
1.1.3.1. Khái niệm chào bán chứng khoán riêng lẻ 18
1.1.3.2. Đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 18
1.1.3.3. Vai trò của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay 20
1.2. Các quy định của pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 21
1.2.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 21
1.2.2. Những quy định của pháp luật về chào bán cổ phiếu riêng lẻ 23
1.2.3. Những quy định của pháp luật về chào bán trái phiếu riêng lẻ 31
1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 33
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN 37
2.1. Thực trạng về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay 37
2.1.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ 37
2.1.2. Thực trạng pháp luật về hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ 52
2.1.2.1. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp 52
2.1.2.2. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của các tổ chức tín dụng 59
2.1.2.3. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty nhà nhà nước 61
2.2. Giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ 63
2.2.1. Giải pháp góp phần hoàn thiện về pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ 63
2.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật 63
2.2.1.2. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 66
2.2.2. Một số biện pháp khác 67
2.2.2.1. Đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền kiến thức về TTCK 68
2.2.2.2. Xây dựng thị trường giao dịch cho chứng khoán chào bán riêng lẻ 68
KẾT LUẬN 70
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, bất kì quốc gia có nền kinh tế phát triển nào cũng có 2 kênh huy động vốn quan trọng: kênh huy động vốn gián tiếp thông qua hệ thống ngân hàng theo nguyên tắc tín dụng và kênh huy động vốn trực tiếp thông qua TTCK theo nguyên tắc đầu tư. Hiện nay chúng ta không thể phủ nhận vai trò của TTCK đối với sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia. TTCK phản ánh rõ nét nhất các qui luật của nền kinh tế thị trường. Người ta ví TTCK như chiếc nhiệt kế đo “nhiệt độ” của nền kinh tế. Sự tăng trưởng của nền kinh tế được đánh giá qua chỉ số giá chứng khoán của TTCK. Lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường ở các quốc gia phát triển đã khẳng định TTCK ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình vận hành nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như trong hệ thống kinh tế toàn cầu[37, tr.1]. Đối với Việt Nam, để hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính, tạo các tiền đề kinh tế quan trọng, đưa đất nước ta đến năm 2020 cơ bản là một nước công nghiệp như Đại hội Đảng VIII đã đề ra thì việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính trong đó có TTCK là hết sức cần thiết.
Ra đời và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 28/7/2000, TTCK Việt Nam đang có những bước tiến vững chắc, nhằm khẳng định vai trò là công cụ hiệu quả để huy động và phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Việc huy động vốn qua TTCK được thực hiện thông qua hoạt động chào bán chứng khoán dưới 2 hình thức chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ. Chào bán chứng khoán là một trong những hoạt động đầu tiên và quan trọng nhất trong tất cả các hoạt động diễn ra trên TTCK. Bởi nó không chỉ góp phần huy động vốn, tăng vốn cho DN mà còn tạo ra hàng hóa cho TTCK, quyết định sự tồn tại của TTCK. Riêng đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ với các quy định về điều kiện thủ tục chào bán dễ dàng, đối tượng chào bán rộng đang là phương thức huy động vốn hữu hiệu của các DN, đặc biệt là DN vừa và nhỏ. Ở nước ta, với nền kinh tế có hơn 2/3 DN vừa và nhỏ, chưa đáp ứng được điều kiện để niêm yết trên sàn giao dịch, thì đây là cách huy động vốn hiệu quả nhất. Đồng thời, việc tiến hành chào bán chứng khoán riêng lẻ sẽ góp phần giúp các DN đổi mới hình thức quản lý, quản trị DN, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tuy nhiên, nếu hoạt động chào bán này không được quản lý tốt bằng pháp luật sẻ có tác động xấu, gây khủng hoảng cho TTCK, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư và ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi pháp luật chứng khoán đang trong quá trình hoàn thiện. Hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ vẫn chưa thực sự được quan tâm và giám sát đúng mức. Điều này đã gây ra nhiều bất ổn cho TTCK trong thời gian qua cả về mặt lý luận và thực tiễn như: các vụ việc xâm phạm quyền lợi của các cổ đông hiện hữu khi chào bán chứng khoán riêng lẻ hay các văn bản pháp luật ban hành không rõ ràng khiến cho các DN cũng như cơ quan áp dụng pháp luật lúng túng trong quá trình thực hiện. Điều này đã làm chậm tiến độ huy động vốn của các DN, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế chung của cả nước. Hay sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật… Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của DN diễn ra đúng pháp luật, TTCK vận hành an toàn. Vấn đề nghiên cứu pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc làm cần thiết. Từ nhận thức đó, tôi chọn đề tài: “Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ và thực trạng tại Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, mục đích của tác giả nhằm:
- Phần tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ trên cơ sở các quy định của pháp luật chứng khoán và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
- Phân tích đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam trong những năm qua về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ được quy định trong Luật chứng khoán 2006; Luật chứng khoán 2010; Luật doanh nghiệp 1999, 2005; Luật các tổ chức tín dụng 1997 sửa đổi bổ sung 2004, 2010; Luật ngân hàng nhà nước 1997 sửa đổi, bổ sung 2004, 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Tìm hiểu thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ trong quá trình xuất hiện, tồn tại và phát triển của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ tại Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về lý luận: Đề tài này nghiên cứu quy định của pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ được quy định tại Luật chứng khoán 2006 ; Luật chứng khoán sửa đổi bổ sung 2010; Luật doanh nghiệp 1999, 2005; Luật các tổ chức tín dụng 1997 sửa đổi bổ sung 2004, 2010; Luật ngân hàng nhà nước 1997 sửa đổi, bổ sung 2004, 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định 01, Nghị định 187/2004/NĐ-CP…
- Về thực tiễn: Nghiên cứu thực trạng hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ. Trên cơ sở đó, tìm ra những vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ để đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu đã được đặt ra tác giả nghiên cứu đề tài trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về chào bán chứng khoán riêng lẻ.
- Phương pháp thống kê để thấy được số lượng các đợt chào bán chứng khoán riêng lẻ trong nền kinh tế.
- Phương pháp so sánh giữa các quy định của pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ theo Luật chứng khoán 2006 sửa đổi bổ sung 2010 và các văn bản trước đây và các văn bản có liên quan khác.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần lời mở đầu, bảng chữ viết tắt, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của đề tài gồm 2 chương:
Chương 1. Tổng quan về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ và pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ
Chương 2. Thực trạng pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ ở Việt Nam và giải pháp góp phần hoàn thiện.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ
VÀ PHÁP LUẬT CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ
1.1 Khái niệm chứng khoán, khái niệm chào bán chứng khoán và chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Khái niệm chứng khoán và phân loại chứng khoán
1.1.1.1. Khái niệm chứng khoán
Vào khoảng giữa thế kỷ 15 tại thành phố trung tâm buôn bán của phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại một số khu như quán cà phê để trao đổi mua bán các loại hàng hoá như nông sản, khoáng sản, tiền tệ và các chứng từ có giá. Ðiểm đặc biệt ở đây là các thương gia chỉ giao dịch với nhau bằng lời nói, không có hàng hoá thật. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau các hợp đồng trao đổi mua bán ngay hoặc cho tương lai. Những cuộc trao đổi này ban đầu chỉ là một nhóm người và sau đó đông dần cho đến khi nó thực sự thành một khu chợ riêng. Thời gian họp chợ lúc đầu là hàng tháng, sau đó hàng tuần rồi rút ngắn còn hàng ngày. Trong các phiên họp chợ tại đây các thương gia thống nhất với nhau các quy ước cho việc thương lượng và sau này trở thành những quy tắc có giá trị bắt buộc đối với những ai muốn tham gia thị trường và TTCK hình thành từ đó. Như vậy, TTCK xuất hiện từ thế kỷ thứ 15. Sự hình thành TTCK cũng đồng thời với thị trường hối đoái và một số thị trường khác.
Quá trình hình thành và phát triển của thị tường chứng khoán thế giới đã trải qua những giai đoạn thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng vào những năm 1875 đến 1913, TTCK phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Hay thời kỳ đen tối nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 và 1987, đã làm cho TTCK thế giới suy sụp nặng nề. Tuy nhiên, TTCK thế giới vẫn tiếp tục phát triển và trở thành một định chế không thể thiếu trong đời sống kinh tế của những quốc gia có nền kinh tế phát triển theo định hướng thị trường và nhất là những nước đang phát triển, đang cần thu hút luồng vốn lớn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân. Cho đến nay, phần lớn các nước trên Thế giới đã có khoảng trên 160 Sở giao dịch chứng khoán phân tán khắp các châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực Đông Nam Á vào những năm 1960 -1970 vào ở các nước ở Đông Âu như Balan, Hunggari, Séc, Nga, và Châu Á như Trung Quốc vào những năm 1980 - đầu năm 1990.
Mặc dù ra đời muộn hơn so với các quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực, chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2000. Tuy nhiên, TTCK Việt Nam đang có những bước tiến vững chắc trong quá trình hội nhập và phát triển, và đang dần khẳng định vai trò là kênh thu hút và dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế thông qua việc phát hành chứng khoán.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về chứng khoán, tuỳ theo quan điểm của mỗi chủ thể và pháp luật mỗi quốc gia.
Theo cách hiểu truyền thống: chứng khoán là bằng chứng viết về quyền tài sản. [3, tr.1] Định nghĩa này được hiểu theo quan điểm chung chung, dễ gây nhầm lẫn với các loại tài sản khác như các giấy tờ séc, hối phiếu, lệnh phiếu… và thậm chí cả giấy đòi nợ.
Theo nghĩa nguyên thuỷ nhất, chứng khoán là những chứng thư, chứng từ thay thế tiền bạc chi tiêu trong các hành trình nhiều ngày trên biển. [33, tr.270] Định nghĩa này chỉ phù hợp với giai đoạn đầu khi TTCK mới hình thành, số lượng hàng hoá còn hạn chế.
Theo cách hiểu của các nhà kinh tế học thì, chứng khoán là mọi sản phẩm tài chính có thể chuyển nhượng được. Hiểu theo cách này, khái niệm chứng khoán không chỉ có cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phái sinh mà bao gồm các công cụ trên thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, các loại thương phiếu, hối phiếu, lệnh phiếu... Nếu hiểu như vậy chúng ta sẽ khó khăn trong việc xác định cấu trúc của thị trường tài chính. [9, tr.270]
Theo pháp luật chứng khoán Mỹ, khái niệm chứng khoán được hiểu rất rộng, nó bao hàm cả những lợi ích mà không phải lúc nào mọi người cũng nghĩ là chứng khoán. Điều 2(a)(1) Luật chứng khoán 1933 cũng như Điều 3(a)(10) Luật giao dịch chứng khoán 1934 liệt kê các loại chứng khoán, bao gồm: chứng nhận (note), cổ phiếu, cổ phiếu quỹ (treasury stock), hợp đồng giao dịch chứng khoán tương lai (security future), trái phiếu, tín phiếu, chứng nhận nợ, chứng chỉ xác nhận lợi ích hay việc tham gia vào thỏa thuận chia lợi nhuận, chứng chỉ tín thác cầm cố (collateral-trust certificate), chứng nhận tiền tổ chức hoặc đăng ký (preorganization certificate or subscription), cổ phần có thể chuyển nhượng, hợp đồng đầu tư, chứng chỉ tín thác bỏ phiếu (voting -trust certificate), chứng chỉ ký thác chứng khoán, lợi ích chưa chia một phần đối với dầu, ga hoặc các quyền về khoáng sản khác , các quyền chọn hay đặc quyền về chứng khoán. Một cách khái quát, chứng khoán là bất kỳ lợi ích, hay công cụ thường được hiểu thông dụng là “chứng khoán”, hay bất cứ một chứng nhận lợi ích hay sự tham gia, sự bảo đảm, hay quyền đăng ký, quyền mua “chứng khoán”[34, tr.4]. Luật chứng khoán Trung Quốc kết hợp cả hai phương pháp trên.[41, tr.210]
Ở Việt Nam, theo khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán 2006 sửa đổi bổ sung 2010 thì: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán;
c) Hợp đồng góp vốn đầu tư;
d) Các loại chứng khoán khác do bộ tài chính quy định.”
1.1.1.2. Đặc điểm chứng khoán
Chứng khoán là một loại tài sản tài chính có đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, tính thanh khoản (tính lỏng): Tính lỏng của tài sản là khả năng chuyển tài sản đó ra tiền mặt. Khả năng này cao hay thấp phụ thuộc vào khoảng thời gian và phí cần thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc giảm sút giá trị của tài sản đó do chuyển đổi. Chứng khoán có tính lỏng cao hơn so với các tài sản khác, thể hiện qua khả năng chuyển nhượng cao trên thị trường và nói chung các chứng khoán khác nhau có khả năng chuyển nhượng là khác nhau.
Thứ hai, tính rủi ro: Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro, bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống. Rủi ro có hệ thống hay rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ hoặc hầu hết các tài sản. Loại rủi ro này chịu tác động của các điều kiện kinh tế chung như: lạm phát, sự thay đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất… Rủi ro không hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc một nhóm nhỏ các tài sản. Loại rủi ro này thường liên quan tới điều kiện của nhà phát hành. Các nhà đầu tư thường quan tâm tới việc xem xét, đánh giá các rủi ro liên quan, trên cơ sở đó đề ra các quyết định trong việc lựa chọn, nắm giữ hay bán các chứng khoán. Điều này phản ánh mối quan hệ giữa lợi tức và rủi ro hay sự cân bằng về lợi tức, người ta sẽ không chịu rủi ro tăng thêm trừ khi người ta kỳ vọng được bù đắp bằng lợi tức tăng thêm.
Thứ ba, tính sinh lợi: Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó, nhà đầu tư mong muốn nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu nhập này được bảo đảm bằng lợi tức được phân chia hàng năm và việc tăng giá chứng khoán trên thị trường. Khả năng sinh lợi bao giờ cũng quan hệ chặt chẽ với rủi ro của tài sản, thể hiện trong nguyên lý – mức độ chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn.
Ngoài những đặc điểm trên, chứng khoán còn có tính “tư bản giả”, thể hiện ở sự không đồng nhất giữa giá thanh toán và mệnh giá chứng khoán. Chứng khoán còn có tính giá trị. Là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với phần vốn và tài sản của chủ thể phát hành nên chứng khoán luôn có giá trị nhất định.
1.1.1.3. Phân loại chứng khoán
Hiện nay có rất nhiều cách phân loại chứng khoán khác nhau tuỳ theo tính chất, đặc điểm của chứng khoán và mục đích nghiên cứu.
- Căn cứ vào hình thức thể hiện, chứng khoán có thể chia thành: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và các chứng khoán phái sinh (chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai…).
- Căn cứ vào quyền của nhà đầu tư đối với chủ thể phát hành, chứng khoán có thể chia thành: chứng khoán nợ, chứng khoán vốn, chứng khoán phái sinh.
+ Chứng khoán vốn: là chứng từ xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu phần vốn góp và các quyền hợp pháp khác đối với tổ chức phát hành. Đại diện cho chứng khoán vốn là cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư. Cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ tài chính có thời hạn thanh toán là vô hạn.[14, tr.44]
Khi tham gia mua cổ phiếu, các nhà đầu tư trở thành các cổ đông của CTCP. Cổ đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị trường thứ cấp theo quy định của pháp luật.
+ Chứng khoán nợ: điển hình là trái phiếu, tín phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người đi vay) phải trả cho người đứng tên sở hữu chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền nhất định bao gồm cả gốc và lãi trong khoảng thời gian cụ thể [2, tr.44].
+ Chứng khoán phái sinh: là công cụ tài chính có nguồn gốc từ chứng khoán và có quan hệ chặt chẽ với các chứng khoán gốc. Các chứng khoán phái sinh được hình thành do nhu cầu giao dịch của người mua và người bán và phát triển phụ thuộc vào mức độ phát triển của TTCK. Có thể phân loại chứng khoán phái sinh thành các loại như: quyền mua cổ phần, chứng quyền, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua và quyền chọn bán.
- Căn cứ vào thời hạn, chứng khoán có thể chia thành: chứng khoán ngắn hạn, chủ yếu là các giấy tờ có giá ngắn hạn (thường là dưới 1 năm) như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng... Chứng khoán dài hạn (có thể từ 2 -10 năm hoặc trên 10 năm) như cổ phiếu, trái phiếu...
- Căn cứ vào lợi tức, có thể chia thành chứng khoán có lợi tức ổn định và chứng khoán có lợi tức không ổn định. Chứng khoán có lợi tức ổn định là những chứng khoán tạo ra lợi tức ổn định theo mệnh giá cho người sở hữu chứng khoán, thường là cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu. Đối với chứng khoán có lợi tức không ổn định, người sở hữu chứng khoán hưởng lợi tức theo kết quả kinh doanh của DN thường là một chứng khoán loại này.
- Căn cứ vào khả năng chuyển đổi, chứng khoán có thể chia thành: chứng khoán có khả năng chuyển đổi và chứng khoán không có khả năng chuyển đổi. Chứng khoán có khả năng chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển sang một loại chứng khoán khác theo những điều kiện và tỷ lệ nhất định. Cổ phiếu ưu đãi, trái phiếu chuyển đổi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường. Chứng khoán không có khả năng chuyển đổi không có những đặc điểm như trên.
Việc phân loại chứng khoán giúp chúng ta hiểu hơn về các loại chứng khoán, quyền và