Đề tài Pháp luật về thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

Kể từ khi ban hành cho đến nay, Luật thuế GTGT luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của mọi giới, nhất là các nhà kinh doanh. Tác động tích cực do thuế GTGT mang lại rất rõ: thu ngân sách Nhà nước không giảm mà còn tăng nhiều so với thuế doanh thu; sản xuất nội địa được gia tăng áp lực bảo hộ. Tuy nhiên đi vào thực tiễn thực hiện hiện thuế GTGT thì vấn đề gian lận và chiếm đoạt thuế GTGT vẫn diễn ra phổ biến, làm thất thoát trầm trọng NSNN. Sau đây chúng tôi xin làm rõ vấn đề thực thi pháp luật thuế GTGT trên thực tế và đề xuất một số biện pháp khắc phục cụ thể

doc15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2177 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Pháp luật về thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ BÀI: Kể từ khi ban hành cho đến nay, Luật thuế GTGT luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của mọi giới, nhất là các nhà kinh doanh. Tác động tích cực do thuế GTGT mang lại rất rõ: thu ngân sách Nhà nước không giảm mà còn tăng nhiều so với thuế doanh thu; sản xuất nội địa được gia tăng áp lực bảo hộ. Tuy nhiên đi vào thực tiễn thực hiện hiện thuế GTGT thì vấn đề gian lận và chiếm đoạt thuế GTGT vẫn diễn ra phổ biến, làm thất thoát trầm trọng NSNN. Sau đây chúng tôi xin làm rõ vấn đề thực thi pháp luật thuế GTGT trên thực tế và đề xuất một số biện pháp khắc phục cụ thể. KHÁI NIỆM THUẾ GTGT VÀ VAI TRÒ CỦA TGTGT Điều 2 Luật TGTGT quy định: “Thuế GTGT là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Được gọi là thuế GTGT vì thực chất là chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Tổng số thuế thu được ở mỗi khâu chính bằng với số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng, còn cơ sở sản xuất kinh doanh,nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ là người nộp thuế vào NSNN thay cho người tiêu dùng thông qua việc cộng thuế vào giá bán mà người tiêu dùng phải thanh toán khi mua hàng hóa, dịch vụ. Ở Việt Nam, Thuế GTGT được ban hành thành Luật và được Quốc Hội khóa IX thông qua tại kì hợp thứ 11 và có hiệu lực thi hành kể từ 1/1/1999, thay thế cho Luật thuế doanh thu. Trong quá trình thực thi, Luật thuế GTGT đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, và hiện này là LTGTGT 2008 đang có hiệu lực đã tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh, phù hợp với thực tiến nước ta trong thời kì hội nhập, khắc phục được những nhược điểm của thuế doanh thu trong cơ chế thị trường (không thu thuế trùng lặp vào các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh), nên có tác dụng: Đảm bảo nguồn thu lớn, ổn định, kịp thời về cho NSNN góp phần tăng cường tài chính quốc gia, đảm bảo nguồn lực đảm bảo nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo và củng cố an ninh quốc phòng. Khuyến khích SXKD phát triển, khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu (do cơ chế đặc thù về khấu trừ, hoàn thuế GTGT: Thuế đầu vào đã trả khi mua các sản phẩm đầu tư dùng cho SXKD hàng hóa, dịch vụ chịu chịu thuế được khấu trừ toàn bộ, hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu không phải nộp thuế khi xuất khẩu mà còn được hoàn lại toàn bộ số thuế đầu vào đã trả khi mua hàng hóa, dịch vụ để sản xuất hàng xuất khẩu. Vì vậy, thuế GTGT có tác dụng tích cực trong việc khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư và từ đó, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển Mặt khác thuế GTGT còn có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp tăng cường hạch toán kinh doanh, thực hiện tốt chế độ kế toán lưu giữ hóa đơn, chứng từ, chống trốn, lậu thuế, nâng cao tinh thần tự giác của các đối tượng kinh doanh. II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 1. Đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế “Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”( Điều 2 Luật thuế GTGT). Theo quy định này có thể thấy rằng phạm vi đối tượng chịu thuế GTGT là rất rộng bởi nó được tính trên phần giá trị tăng thêm của hầu hết những hàng hóa, dịch vụ sản xuất, lưu thông trên thị trường. Đối tượng chịu thuế GTGT gồm: “Hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam, trừ các đối tượng quy định tại Điều 5 của Luật này”(Điều 3 Luật TGTGT). Đối tượng nộp thuế GTGT gồm tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT (Điều 4 luật TGTGT). 2. Căn cứ tính thuế GTGT. Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất (Điều 6 Luật thuế GTGT). Giá tính thuế tại Điều 7 Luật thuế GTGT được xác định như sau: - Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra là giá bán chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa có thuế GTGT; - Đối với hàng hóa nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu (nếu có), cộng với thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có). Giá nhập tại cửa khẩu được xác định theo quy định về giá tính thuế hàng nhập khẩu; - Đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng cho là giá tính thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này; -Đối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền cho thuê chưa có thuế GTGT; -Trường hợp thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải của nước ngoài loại trong nước chưa sản xuất được để cho thuê lại, giá tính thuế được trừ giá thuê phải trả cho nước ngoài; - Đối với hàng hóa bán theo phương thức trả góp, trả chậm là giá tính theo giá bán trả một lần chưa có thuế GTGT của hàng hoá đó, không bao gồm khoản lãi trả góp, lãi trả chậm; - Đối với gia công hàng hoá là giá gia công chưa có thuế GTGT; - Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt là giá trị công trình, hạng mục công trình hay phần công việc thực hiện bàn giao chưa có thuế GTGT. -Đối với hoạt động kinh doanh bất động sản là giá bán bất động sản chưa có thuế GTGT, trừ giá chuyển quyền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất phải nộp ngân sách nhà nước; -Đối với hoạt động đại lý, môi giới mua bán hàng hoá và dịch vụ hưởng hoa hồng là tiền hoa hồng thu được từ các hoạt động này chưa có thuế GTGT; -Đối với hàng hoá, dịch vụ được sử dụng chứng từ thanh toán ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì giá tính thuế được xác định theo công thức sau: Giá chưa có thuế GTGT = Giá thanh toán 1 + thuế suất của hàng hoá, dịch vụ (%) Giá tính thuế được xác định bằng đồng Việt Nam. Trường hợp người nộp thuế có doanh thu bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh thu để xác định giá tính thuế. Về thuế suất GTGT Điều 8 Luật thuế GTGT quy định, hướng dẫn cụ thể tại Điều 6 Nghị định số 123/2008/NĐ-CP gồm có 3 mức thuế suất: - Mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế và hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT quy định tại Điều 5 của Luật này khi xuất khẩu, trừ các trường hợp chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài; dịch vụ tái bảo hiểm ra nước ngoài; dịch vụ cấp tín dụng, chuyển nhượng vốn, dịch vụ tài chính phái sinh; dịch vụ bưu chính, viễn thông; sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa qua chế biến. - Mức thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ sau đây: - Nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt; - Phân bón; quặng để sản xuất phân bón; thuốc phòng trừ sâu bệnh và chất kích thích tăng trưởng vật nuôi, cây trồng; - Thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác; - Dịch vụ đào đắp, nạo vét kênh, mương, ao hồ phục vụ sản xuất nông nghiệp; nuôi trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng; sơ chế, bảo quản sản phẩm nông nghiệp; - Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản chưa qua chế biến (trừ sản phẩm quy định tại khoản 1 Điều 5 của Luật thuế GTGT) - Mủ cao su sơ chế; nhựa thông sơ chế; lưới, dây giềng và sợi để đan lưới đánh cá; - Thực phẩm tươi sống; lâm sản chưa qua chế biến (trừ gỗ, măng và sản phẩm quy định tại khoản 1 Điều 5 của Luật thuế GTGT) - Đường; phụ phẩm trong sản xuất đường, bao gồm gỉ đường, bã mía, bã bùn; - Sản phẩm bằng đay, cói, tre, nứa, lá, rơm, vỏ dừa, sọ dừa, bèo tây và các sản phẩm thủ công khác sản xuất bằng nguyên liệu tận dụng từ nông nghiệp; bông sơ chế; giấy in báo; - Máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm máy cày, máy bừa, máy cấy, máy gieo hạt, máy tuốt lúa, máy gặt, máy gặt đập liên hợp, máy thu hoạch sản phẩm nông nghiệp, máy hoặc bình bơm thuốc trừ sâu; - Thiết bị, dụng cụ y tế; bông, băng vệ sinh y tế; thuốc phòng bệnh, chữa bệnh; sản phẩm hóa dược, dược liệu là nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; - Giáo cụ dùng để giảng dạy và học tập, bao gồm các loại mô hình, hình vẽ, bảng, phấn, thước kẻ, com-pa và các loại thiết bị, dụng cụ chuyên dùng cho giảng dạy, nghiên cứu, thí nghiệm khoa học; - Hoạt động văn hoá, triển lãm, thể dục, thể thao; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim; - Đồ chơi cho trẻ em; sách các loại, trừ sách quy định tại khoản 15 Điều 5 của Luật này; - Dịch vụ khoa học, công nghệ theo quy định của Luật khoa học và công nghệ. Mức thuế suất 10% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ không thuộc hai đối tượng được hưởng mức thuế trên. 3. Thời điểm tính thuế GTGT. Thời điểm tính thuế GTGT được quy định tại Điều 5 Nghị định số 123/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT: - Thời điểm xác định thuế GTGT đối với hàng hoá là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hoá cho người mua, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. - Thời điểm xác định thuế GTGT đối với dịch vụ là thời điểm hoàn thành việc cung ứng dịch vụ hoặc thời điểm lập hoá đơn cung ứng dịch vụ, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. 4. Phương pháp tính thuế GTGT. Theo quy định của Luật thuế GTGT, Nghị định số 123/2008/NĐ-CP cũng như Thông tư số 129/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT và Nghị định số 123/2008/NĐ-CP thì có hai phương pháp tính thuế GTGT đó là phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT: Thứ nhất, phương pháp khấu trừ thuế GTGT, đây là phương pháp tính thuế GTGT được áp dụng phổ biến trên thực tế đối với những cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ hóa đơn, chứng từ và đăng ký nộp thuế theo phương pháp này. Cách tính thuế theo phương pháp khấu trừ được xác định như sau: - Số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế bằng số thuế GTGT đầu ra trừ số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ; - Số thuế GTGT đầu ra bằng tổng số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra ghi trên hoá đơn GTGT; - Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hóa đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ, chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hóa nhập khẩu và đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 12 của Luật này. Thứ hai là phương pháp tính trực tiếp trên GTGT: Về đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên thuế GTGT gồm có: - Cơ sở kinh doanh và tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nhưng có thu nhập phát sinh tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ; - Hoạt động mua bán vàng, bạc, đá quý. 4. Khấu trừ thuế GTGT. 4.1. Điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào, phải: - Có hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu; - Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng; - Đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, ngoài các hai điều kiện trên thì còn phải có hợp đồng ký kết với bên nước ngoài về việc bán, gia công hàng hoá, cung ứng dịch vụ, hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, chứng từ thanh toán qua ngân hàng, tờ khai hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu 4.2. Cách khấu trừ thuế GTGT. Việc khấu trừ thuế GTGT được quy định tại Điều 12 Luật thuế GTGT và Điều 9 Nghị định số 123/2008/NĐ-CP: - Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT được khấu trừ toàn bộ; - Thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ sử dụng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế thì chỉ được khấu trừ số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT. Trường hợp thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định sử dụng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì được khấu trừ toàn bộ;  - Thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ bán cho tổ chức, cá nhân sử dụng nguồn vốn viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại được khấu trừ toàn bộ; - Thuế GTGT đầu vào phát sinh trong tháng nào được kê khai, khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó. Trường hợp cơ sở kinh doanh phát hiện số thuế GTGT đầu vào khi kê khai, khấu trừ bị sai sót thì được kê khai, khấu trừ bổ sung; thời gian để kê khai, bổ sung tối đa là sáu tháng, kể từ thời điểm phát sinh sai sót. 5. Hoàn thuế GTGT. Việc hoàn thuế GTGT được quy định tại Điều 13 Luật thuế GTGT và Điều 10 Nghị định 123/2008/NĐ-CP ngày 8/12/2008. Theo các quy định trên thì việc hoàn thuế GTGT được thực hiện trong trường hợp cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế và trong ba tháng liên tục trở lên có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết. Trường hợp cơ sở kinh doanh đã đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư có số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ hết và có số thuế còn lại từ hai trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT. - Nếu cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ từ hai trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT theo tháng. - Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế được hoàn thuế GTGT khi chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi doanh nghiệp, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động có số thuế GTGT nộp thừa hoặc số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết.   - Cơ sở kinh doanh có quyết định hoàn thuế GTGT của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và trường hợp hoàn thuế GTGT theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT THUẾ GTGT Kết quả đạt được khi thực thi pháp luật thuế GTGT Thuế GTGT gần 3 năm thực hiện, đã chứng tỏ mình là một sắc thuế quan trọng, với tỷ trọng lớn nhất - khoảng 20% tổng thu ngân sách, cùng với các sắc thuế khác, thuế GTGT góp phần hoàn thành dự toán thu ngân sách Nhà nước, thu ngân sách Nhà nước không giảm mà còn tăng nhiều so với thuế doanh thu đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên của đất nước; hoạt động sản xuất – kinh doanh ngày càng phát triển mạnh mẽ; sản xuất nội địa được gia tăng áp lực bảo hộ. Thực hiện Luật thuế GTGT cũng phần nào hạn chế được tình trạng gian lận thuế diễn ra nhức nhối trong suốt thời gian dài. Với những thay đổi hợp lý hơn so với Luật thuế GTGT 1999 Luật thuế GTGT 2008 đã tạo ra 1 diện mạo mới trong ngành thuế nước ta, và có tác động không nhỏ đến sự phát triển nền kinh tế-xã hội. Có thể thấy rõ hiện nay đến 80% dân số nước ta sống ở khu vực nông thôn cho nên việc ưu tiên mức thuế suất thấp đối với những sản phẩm, dịch vụ nông nghiệp đã tạo điều kiện cho bà con nông dân làm ăn. Bên cạnh đó với quy định mức thuế suất thuế GTGT 0%, 5% và 10% cũng được đánh giá là phù hợp với tình hình, điều kiện kinh tế xã hội hiện tại, khi mà hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các ngành, các lĩnh vực còn nhiều chênh lệch. 2. Những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật thuế GTGT và các hành vi gian lận thuế GTGT 2.1. Những hạn chế trong việc áp dụng quy định của pháp luật Trải qua thực tiễn áp dụng thuế GTGT cũng nảy sinh nhiều khó khăn vướng mắc cần giải quyết như : vấn đề hoá đơn, khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT, thuế suất thuế GTGT...Tuy đã được sửa đổi bổ sung và giải quyết được phần nào những vướng mắc trên song so với nhiệm vụ và yêu cầu phát triển kinh tế hiện nay thì Luật thuế GTGT vẫn còn một số khiếm khuyết cần nghiên cứu giải quyết để Luật thuế GTGT ngày càng hoàn thiện và phù hợp với tình hình kinh tế nước ta. Thứ nhất: hiện nay toàn Đảng, toàn dân đều quan tâm đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân, nên việc nông dân phải mua hàng hóa dịch vụ đầu vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, mức thuế suất thuế GTGT là 5%, nhưng lại không được khấu trừ thuế gia tăng đầu vào là không hợp lý.Việc quy định chịu thuế đối với nhóm hàng hóa này gây khó khăn cho người nông dân trong quá trình đầu tư sản xuất, chi phí đầu vào cao, cộng với những yếu tố bất lợi về thời tiết, thiên tai, dịch bệnh sẽ làm giảm thu nhập của người nông dân. Không những thế, mức thuế suất 5% đối với hàng hóa dịch vụ này sẽ giúp cho các doanh nghiệp cung ứng mặt hàng này không những được hưởng lợi trong quá trình sản xuất kinh doanh mà còn được hoàn thuế, điều này không công bằng và thực sự không khuyến khích người sản xuất ra hàng hóa, sản phẩm dịch vụ nông nghiệp. Thứ hai: Theo pháp luật về thuế GTGT, chỉ khi những đơn vị nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mua hàng hoá, dịch vụ từ những đơn vị cũng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ và có lập hoá đơn GTGT hợp pháp thì mới có khả năng được khấu trừ thuế đầu vào một cách chính xác số thuế GTGT đúng theo bản chất của thuế GTGT. Còn trường hợp, những đơn vị nộp thuế GTGT theo phương thức trực tiếp, hoá đơn đầu vào hợp pháp nhưng không là hoá đơn GTGT mà là hoá đơn bán hàng, thì đối tượng nợp thuế không được khấu trừ hoặc được khấu trừ theo một tỷ lệ ấn định mang tính chủ quan. Vì vậy, trường hợp này đi ngược lại với bản chất của thuế GTGT mà thực chất chỉ là một phiên bản của thuế doanh thu.Ngoài ra, đối với những trường hợp cơ sở sản xuất kinh doanh mua hàng không có hoá đơn chứng từ mà chỉ cần bảng kê khai (hầu như không có giá trị pháp lý) thì được khấu trừ khống theo tỷ lệ nhất định (trừ một số hàng hoá không được khấu trừ khống theo Nghị định 108/2002/NĐ-CP ngày 25/12/2002 của Chính Phủ). Vì vậy, đưa đến một mâu thuẫn là trong một số trường hợp số thuế đầu vào không có thật thì được khấu trừ, một số trường hợp khác là số thuế đầu vào có thật thì không được khấu trừ hoặc chỉ được khấu trừ một phần. Thứ ba: một số đối tượng đã lợi dụng cơ chế hoàn trước - kiểm sau và việc khấu trừ theo tỷ lệ % nhất định đối với hàng nông sản để chiếm đoạt tiền thuế. Căn cứ chủ yếu để được hoàn thế là hoá đơn hợp pháp. Thông qua hoá đơn hợp pháp, doanh nghiệp không chỉ khai man trốn thuế, mà còn lợi dụng chủ trương hoàn thuế để chiếm đoạt tiền thuế, gây thiệt hại cho những doanh nghiệp chân chính. Thống kê qua các lần thanh tra, kiểm tra và quyết toán thuế, hoàn thuế cho thấy có rất nhiều hình thức gian lận thuế, chiếm đoạt tiền thuế thông  qua hoá đơn. 2.2. Tình trạng lận thuế GTGT Thực trạng tình hình thực hiện Luật thuế GTGT ở nước ta cho thấy các vụ gian lận trong thuế GTGT ngày càng nhiều, các hình thức ngày càng tinh vi cho thấy vấn đề gian lận thuế GTGT đã trở nên vô cùng nguy hiểm và đáng báo động cho toàn xã hội. Hiện nay, một trong những chiêu thức tinh vi mà các doanh nghiệp thường áp dụng để gian lận thuế bằng cách lập các công ty “ma” mua bán hóa đơn giá trị gia tăng (GTGT), lập hồ sơ xuất khẩu khống để được hoàn thuế, mua hóa đơn để kê khống đầu vào nhằm trốn thuế… Điển hình là vụ gian lận thuế của ông Dương Văn Năm (Giám đốc Công ty TNHH Ngọc Sang) chuyên kinh doanh buôn bán lương thực. Ông này đã lập ra nhiều DN khác như Công ty TNHH Nguyễn Dương, Công ty TNHH Ngọc Giàu, Công ty CP XNK Giàu Sang, do những người thân trong gia đình đứng tên, nhưng mọi hoạt động đều do Dương Văn Năm quản lý, điều hành. Sau đó các DN của Năm đã cấu kết với Lê Văn Tre, Nguyễn Văn Luật, Lê Văn Cảnh, Trần Phú Ảnh và Đỗ Văn Bạch mua hóa đơn khống của nhiều DN ở TPHCM, Đồng Nai… để hợp thức hóa lượng hàng hóa đầu vào, chiếm đoạt tiền thuế của nhà nước. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2007, Năm đã mua hơn 100 hóa đơn để hợp thức hóa số gạo trôi nổi nhằm trốn thuế GTGT với số tiền hơn 7,8 tỷ đồng. Nổi bật trong thời gian gần đây là vụ Huỳnh Quốc Ngọc- kẻ cầm đầu trong vụ án thành lập hàng loạt công ty "ma" tại TP Cần Thơ và TP.HCM để mua bán hóa đơn thuế GTGT. Từ tháng 4/2003 đến tháng 6/2005, Huỳnh Quốc Ngọc cùng đồng bọn đã tìm mua hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân và thuê mướn nhiều người là dân lao động đứng ra thành lập 41 doanh nghiệp. Trong đó, 15 công ty tại TP HCM và 26 doanh nghiệp ở Cần Thơ. Những đơn vị này không hoạt động kinh doanh, mà chỉ chuyên mua bán hóa đơn thuế GTGT với doanh số trên 1.370 tỷ đồng. Với hành vi trên, nhóm của Ngọc thu lợi bất chính 15 tỷ
Luận văn liên quan