Đề tài Pháp luật Việt Nam về tập trung kinh tế và thực tiễn thực hiện

Trong đà phát triển của nền kinh tế khi doanh nghiệp muốn phát triển bền vững trên thị trường cần tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thông qua quá trình “tự lớn lên ” của chính mình; thể hiện bằng những biện pháp như nâng cao năng lực tài chính, cải tiến tổ chức quản lý, phát triển công nghệ mới, thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh và cả việc tìm kiếm “vận may” trên thương trường. Tập trung kinh tế là hiện tượng thuộc về quyền tự do của các doanh nghiệp, theo các nguyên lý của kinh tế thị trường mà ở đó quyền tự do khế ước, tự do lập hội được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Điều này ở nước ta đựơc ghi nhận trong Bộ luật Dân sự và trong luật doanh nghiệp và pháp luật cạnh tranh. Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh chỉ đảm bảo cho các doanh nghiệp sử dụng đến tận cùng những khả năng sẵn có của mình bằng những phương thức chân chính. Tập trung kinh tế là một xu hướng phát triển tất yếu của tư bản trong kinh tế thị trường. Vì những lý do khác nhau trong nền kinh tế như cạnh tranh gay gắt, nhu cầu đáp ứng công nghệ mới, nhu cầu về vốn và sức mạnh tài chính mà khả năng của từng nhà tư bản riêng rẽ không thể đáp ứng được mà vấn đề tập trung kinh tế luôn diễn ra trên thương trường. Do đó, cần một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ để kiểm soát tập trung kinh tế một cách tốt nhất. Bài luận của nhóm D1 -3 nghiên cứu pháp luật Việt Nam về tập trung kinh tế và thực tiễn thực hiện, mong sẽ giúp người đọc có một cách tiếp cận gần hơn, dễ dàng hơn với vấn đề này.

doc16 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2391 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Pháp luật Việt Nam về tập trung kinh tế và thực tiễn thực hiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong đà phát triển của nền kinh tế khi doanh nghiệp muốn phát triển bền vững trên thị trường cần tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thông qua quá trình “tự lớn lên ” của chính mình; thể hiện bằng những biện pháp như nâng cao năng lực tài chính, cải tiến tổ chức quản lý, phát triển công nghệ mới, thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh…và cả việc tìm kiếm “vận may” trên thương trường. Tập trung kinh tế là hiện tượng thuộc về quyền tự do của các doanh nghiệp, theo các nguyên lý của kinh tế thị trường mà ở đó quyền tự do khế ước, tự do lập hội…được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Điều này ở nước ta đựơc ghi nhận trong Bộ luật Dân sự và trong luật doanh nghiệp và pháp luật cạnh tranh. Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh chỉ đảm bảo cho các doanh nghiệp sử dụng đến tận cùng những khả năng sẵn có của mình bằng những phương thức chân chính. Tập trung kinh tế là một xu hướng phát triển tất yếu của tư bản trong kinh tế thị trường. Vì những lý do khác nhau trong nền kinh tế như cạnh tranh gay gắt, nhu cầu đáp ứng công nghệ mới, nhu cầu về vốn và sức mạnh tài chính…mà khả năng của từng nhà tư bản riêng rẽ không thể đáp ứng được mà vấn đề tập trung kinh tế luôn diễn ra trên thương trường. Do đó, cần một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ để kiểm soát tập trung kinh tế một cách tốt nhất. Bài luận của nhóm D1 -3 nghiên cứu pháp luật Việt Nam về tập trung kinh tế và thực tiễn thực hiện, mong sẽ giúp người đọc có một cách tiếp cận gần hơn, dễ dàng hơn với vấn đề này. Nội dung Khái quát chung về tập trung kinh tế. Theo khoa học kinh tế: hành vi tập trung kinh tế được hiểu là việc làm giảm số lượng các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường thông qua các hành vi sáp nhập (theo nghĩa rộng) hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh của doanh nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất. Nhưng theo khoa học pháp lý thì luạt cạnh tranh không định nghĩa về hành vi tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hành vi được coi là tập trung kinh tế theo Điều 16. Như vậy, có thể hiểu đặc điểm của hành vi tập trung kinh tế là: chủ thể của tập trung kinh tế là các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường; hành vi tạp trung kinh tế được thực hiện dưới những hình thức nhất định theo quy định của pháp luật và hậu quả của tạp trung kinh tế là việc hình thành các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn mạnh thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan trên thị trường. Có nhiều cách phân loại tập trung kinh tế nhưng chủ yếu căn cứ vào vị trí của chủ thể tham gia tập trung, theo cấp độ kinh doanh sẽ phân thành tập trung kinh tế theo chiều ngang và tập trung kinh tế theo chiều dọc. Tập trung kinh tế theo chiều ngang diễn ra giữa các doanh nghiệp cùng ở một cấp độ trong chuỗi sản xuất hay nói cách khác đó là những doanh nghiệp trên cùng một thị trường liên quan. Tập trung kinh tế theo chiều dọc diễn ra giữa các doanh nghiệp ở các cấp độ khác nhau. Bên cạnh đó, tập trung kinh tế còn có nhiều ảnh hưởng lớn đến môi trường cạnh tranh. Nó làm hạn chế cạnh tranh xong lại tạo ra những doanh nghiệp có quy mô kinh doanh lớn, tiềm lực tài chính mạnh hơn, giảm chi phí đầu tư, chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh. Quy định của pháp luật Việt Nam về tập trung kinh tế. Tập trung kinh tế là khái niệm dùng để chỉ sự tích tụ, tập trung của doanh nghiệp trên thị trường nhằm hình thành doanh nghiệp lớn hơn. Pháp luật cạnh tranh Việt Nam không thiết kế mô hình kiểm soát tập trung kinh tế theo các dạng như các nước trên thế giới mà thiết kế theo các hình thức pháp lý của tập trung kinh tế nhằm tạo cơ sở cho các quy định có liên quan. Theo Điều 16 Luật cạnh tranh do quốc hội ban hành ngày 3/12/2004 thì: “Tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm: 1. Sáp nhập doanh nghiệp; 2. Hợp nhất doanh nghiệp; 3. Mua lại doanh nghiệp; 4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp; 5. Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật.” 2.1 Các hình thức tập trung kinh tế theo pháp luật hiện hành. Điều 17 Luật cạnh tranh đưa ra khái niệm pháp lý của các hình thức tập trung kinh tế. Các quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định các hình thức tập trung kinh tế theo luật định, phân biệt với các hình thức tích tụ vốn khác. Như vậy, theo quy định pháp luật bao gồm năm hình thức tập trung kinh tế. 2.1.1 Sát nhập doanh nghiệp. “Sáp nhập doanh nghiệp là một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập”. (Điều 17 luật cạnh tranh). Mô hình: A + B = B’ Như vậy, sau khi sáp nhập, doanh nghiệp bị sáp nhập không còn tồn tại và bị xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh. Công ty nhận sáp nhận sáp nhập được hưởng các quyền, lợi ích hợp pháp và chịu trách nhiệm về nghĩ vụ của công ty bị sáp nhập. Định nghĩa về hành vi sáp nhập doanh nghiệp tại khoản 1 Điều 17 Luật cạnh tranh về cơ bản là phù hợp với quy định của Điều 94 của BLDS; Điều 152 Luật doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp 2005 xác định cụ thể việc sáp nhập với tư cách là một hình thức tổ chức lại doanh nghiệp nên pháp luật quy định chủ yếu về tư cách pháp lý của doanh nghiệp. Trong luật Cạnh tranh sáp nhập là một hình thức tập trung kinh tế nên bị kiểm soát nhằm ngăn ngừa khả năng hình thành doanh nghiệp có sức mạnh trên thị trường và có khả năng thực hiện hành vi gây cản trở cạnh tranh. Hợp nhất doanh nghiệp. Khoản 2 Điều 17 Luật cạnh tranh quy định: “ hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.” Mô hình: A + B = C Sau khi hợp nhất doanh nghiệp, các doanh nghiệp bị hợp nhất chấm dứt sự tồn tại. Công ty hợp nhất được được hưởng các quyền, lợi ích hợp pháp và chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán và các nghĩa vụ khác. Khái niệm này tương tư khái niệm hợp nhất theo Luật doanh nghiệp là cũng làm thay đổi cơ cấu của doanh nghiệp, hình thành một doanh nghiệp có quy mô lớn hơn các doanh nghiệp trước đó. Mua lại doanh nghiệp. Theo quy định tại khoản 3 Luật cạnh tranh: “mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề củ liên doanh bị mua lại”. Mua lại doanh nghiệp bao gồm hai trường hợp: mua lại toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp. Có một số ý kiến cho rằng mua lại doanh nghiệp về bản chất chính là hình thức sáp nhập doanh nghiệp. Bởi vì khi mua lại toàn bộ doanh nghiệp, người mua trở thành chủ sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên, ý kiến này vẫn còn là đề tài tranh luận. Mua lại một phần doanh nghiệp được thực hiện dưới hình thức mua tài sản, mua cổ phần của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại. Về bản chất pháp lý, mua lại doanh nghiệp là hình thức tập trung kinh tế bằng biện pháp thiết lập quan hệ sở hữu giữa doanh nghiệp mua lại và doanh nghiệp bị mua lại. Việc mua lại không phải là quá trình thống nhất về tổ chức giữa hai doanh nghiệp nói trên. Một số trường hợp mua lại doanh nghiệp khác không được coi là TTKT. Đó là trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm, tổ chức tín dụng, mua lại doanh nghiệp khác nhằm mục đích bán lại trong thời hạn dài nhất là một năm không bị coi là TTKT nếu doanh nghiệp mua lại không thực hiện quyền kiểm soát hoặc chi phối doanh nghiệp bị mua lại, hoặc thực hiện quyền này chỉ trong khuôn khổ bắt buộc để đạt được mục đích bán lại đó. Quy định này của pháp luật Việt Nam đã có sự tương đồng với pháp luật kiểm soát kinh tế quy định tại khoản 5a Điều 3 của quy chế 139/2004 của liên minh châu Âu. Về quyền chi phối hoặc kiểm soát doanh nghiệp bị mua lại, pháp luật cạnh tranh quy định quyền kiểm soát hoặc chi phối được hiểu là trường hợp doanh nghiệp mua lại dành được quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ chiếm được trên 50% quyền bỏ phiếu tại đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị hoặc ở mức mà theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ để doanh nghiệp mua lại chi phối các chính sách tài chính. Luật doanh nghiệp năm 2005 không trực tiếp sử dụng thuật ngữ quyền chi phối hoặc kiểm soát doanh nghiệp khác mà sử dụng quan hệ mẹ - con giữa các công ty để thể hiện mối quan hệ sử hữu. Về ý nghĩa pháp lý, quy định trong hai văn bản luật Cạnh tranh và luật Doanh nghiệp là tương đồng, song về căn cứ xác định và giá trị ứng dụng lại có nhưng khác biệt đáng kể. Liên doanh giữa các doanh nghiệp Khoản 4 Điều 17 luật cạnh tranh: “Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hay nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghia vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới.” Liên doanh là dạng liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua việc cùng tham gia thành lập một doanh nghiệp mới. sự tồn tại của doanh nghiệp mới tạo ra mối liên kết giữa các doanh nghiệp tham gia. Xét về bản chất, hoạt động liên doanh đồng nghĩa với họt động góp vốn doanh nghiệp được quy định theo Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã, Luật các tổ chức tín dụng và Luật đầu tư. Do đó, ngoài các quy định của Luật cạnh tranh, hoạt động liên doanh còn chịu sự điều chỉnh bởi các quy định về đăng ký kinh doanh, về thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư trong các văn bản nói trên. Có thể nói, hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp và hợp nhất doanh nghiệp cùng nhằm mục đích tạo ra chủ thể pháp lý mới trên thị trường có sức mạnh kinh tế lớn hơn, song sự khác biệt cơ bản giữa hai hành vi được thể hiện ở chỗ: đối với hành vi hợp nhất doanh nghiệp, sau khi chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp để hình thành doanh nghiệp mới thì sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất chấm dứt về mặt pháp lý. Còn đối với hành vi liên doanh, các doanh nghiệp chỉ góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp để hình thành một doanh nghiệp mới, song các donh nghiệp góp vốn liên doanh vẫn tồn tại địa vị pháp lý của mình. Các hành vi tập trung kinh tế khác. Đây là cách xây dựng pháp luật phổ biến của Việt Nam khi sử dụng phương pháp liệt kê nhưng vẫn dự phòng một số điều khoản mở. Quy định dự phòng nhằm cho phép bổ sung khi cần thiết những hành vi tập trung kinh tế khác đã được ghi nhận ở pháp luật chuyên ngành hoặc có thể xuất hiện trong thực tiễn kinh doanh. 2. 2 Hậu quả pháp lý của tập trung kinh tế 2.2.1 Các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm Dưới sức ép cạnh tranh thì việc tập trung nguồn lực kinh doanh diễn ra khá phổ biến, để kiểm soát hoạt động này nhà nước đã quy định cụ thể ghi nhận trong Luật cạnh tranh năm 2004. Theo quy định tại Điều 18 Luật cạnh tranh năm 2004 “Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 19 của Luật này hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật”. Luật cạnh tranh đã sử dụng thị phần làm cơ sở phân loại nhóm tập trung kinh tế và làm tiêu chí duy nhất để xác định khả năng gây hại của các trường hợp tập trung kinh tế. Những trường hợp tập trung kinh tế mà thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia chiếm trên 50% trên thị trường liên quan luôn mang bản chất hạn chế cạnh tranh nên việc tập trung kinh tế đã hình thành một doanh nghiệp nắm giữ đa số thị phần trên thị trường liên quan mà không phải từ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp khi chiếm trên 50% tại thị trường liên quan bị cấm tập trung kinh tế, quy định như này đảm bảo sự phát triển, cạnh tranh bình đẳng giữa tất cả các doanh nghiệp với nhau. Đồng thời pháp luật cũng đã dự liệu trường hợp các doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế có thị phần kết hợp với các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế khác chiếm trên 50% trên thị trường liên quan nhưng doanh nghiệp đó vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ thì vẫn được thực hiện tập trung kinh tế. Như vậy, đã tạo ra cơ hội cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển bền vững, lành mạnh cho nền kinh tế. Các trường hợp tập trung kinh tế miễn trừ cạnh tranh. Theo quy định tại Điều 19 Luật cạnh tranh năm 2004 các trường hợp miễn trừ cạnh tranh gồm: “1. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản; 2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.”. Căn cứ vào quy định này có thể thấy khi một trong các doanh nghiệp đang thực hiện tập trung kinh tế mà lâm vào tình trạng phá sản hoặc có nguy cở giải thể thì nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ cho doanh nghiệp bằng cách vẫn cho họ thực hiện tập trung kinh tế để khôi phục lại đà phát triển cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp đang trong nguy cơ giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính hoặc mất khả năng thanh toán chứ không đồng nghĩa với việc doanh nghiệp dừng hoạt động và không có nghĩa là xã hội không có nhu cầu sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Bộ trưởng bộ Công thương xem xét và quyết định bằng văn bản với những trường hợp này. Trong trường hợp những ngành nghề mà doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế thuộc lĩnh vực xuất nhập khẩu hoặc có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội thì nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp một cách tốt nhất nhằm nhanh chóng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế từ sự phát triển của doanh nghiệp. Thủ tướng chính phủ xem xét và quyết định bằng văn bản với những trường hợp này. Quy định pháp luật về tập trung kinh tế rất chặt chẽ và cụ thể nhưng không thể tránh khỏi nhưng thiếu sót khi áp dụng vào thực tế, những thiếu sót này cần sớm phát hiện và khắc phục. 2.2.3 Các trường hợp tập trung kinh tế phải thông báo Quyền tự do kinh doanh là quyền tự quyết của các doanh nghiệp nhưng để đảm bảo hoạt động này diễn ra bình đẳng thì pháp luật quy định các trường hợp tập trung kinh tế phải thông báo Điều 20 Luật canh tranh năm 2004. Theo quy định pháp luật các doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trước khi tiến hành tập trung kinh tế. Như vậy, để đảm bảo hoạt động này diễn ra bình đẳng thì pháp luật bắt buộc các doanh nghiệp phải tiến hành khai báo với nhà nước và hoạt động này chỉ áp dụng với một nhóm đối tượng nhất định khi doanh nghiệp đó chiếm thị phần lớn trên thị trường. Nhà nước thông qua pháp luật để kiểm soát nền kinh tế phát triển một cách bền vững và công bằng. Nếu tập trung kinh tế thuộc diện phải thông báo thì thủ tục xem xét các vụ tập trung kinh tế bao gồm: Bước 1: Thông báo tập trung kinh tế, gồm việc nộp hồ sơ thông báo tập trung kinh tế và cơ quan có thẩm tiến hành xem xét các nội dung chính sau: xác định và mô tả thị trường liên quan; xác định các doanh nghiệp tham gia thị trường liên quan và ngưỡng nhất định để kiểm soát tập trung kinh tế; Bước 2: Thụ lý hồ sơ thông báo tập trung kinh tế; Bước 3: Trả lời thông báo về hồ sơ tập trung kinh tế; Bước 4: Thực hiện thủ tục tập trung kinh tế tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Sau khi hoàn tất các bước trên doanh nghiệp tiến hành tập trung kinh tế. Hình thức xử lý vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế Bất kỳ hành vi trái với quy định của pháp luật do các chủ thể tiến hành đều phải chịu hình thức xử lý tương ứng mức độ vi phạm. Vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế được hiểu là việc các doanh nghiệp thực hiện một trong hai hành vi: tiến hành tập trung kinh tế tại các trường hợp bị cấm; tiến hành tập trung kinh tế mà không thông báo nếu thuộc trường hợp phải thông báo. Đối với hành vi vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế, các doanh nghiệp vi phạm phải chịu hình thức xử phạt về via phạm hành chính là phạt tiền với các mức khác nhau nhưng tối đa chỉ đễn 10% tổng doanh thu của các doanh nghiệp vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế. Bên cạnh đó mức vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung như biện pháp khắc phục hậu quả, bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hoặc buộc chia tách, sát nhập doanh nghiệp đã hợp nhất, sát nhập… theo quy định của Luật cạnh tranh và Nghị định 120/2005/NĐ_CP ngày 30/09/2005 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh. Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về tập trung kinh tế. 3.1 Thực tiễn thực hiện các quy định về hình thức tập trung kinh tế. Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam không nêu lên định nghĩa hành vi tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hình thức. Theo đó, trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật về tập trung kinh tế đã nhận thấy: Pháp luật về cạnh tranh của các nước đều thống nhất coi sáp nhập doanh nghiệp là một hành vi tập trung kinh tế điển hình. Trong những năm gần đây, M&A trở nên sôi động hơn tại Việt Nam. Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại hội thảo năm 2005 chỉ có 18 vụ M &A với tổng giá trị là 61 triệu đôla Mỹ, năm 2006 có 32 vụ với tổng giá trị các thương vụ là 245 triệu đôla Mỹ. Năm 2007, Việt Nam có hơn 90 vụ M &A với giá trị giao dịch là hơn 1, 7 tỷ đôla Mỹ và năm 2008, đã có gần 40 vụ sáp nhập và mua lại với tổng giá trị gần 30 triệu đôla Mỹ. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, trong 5 đến 10 năm tới, sẽ có từ 30% đến 50% doanh nghiệp tại Việt Nam sẽ sáp nhập hoặc bị sáp nhập với các đối tác khác. Hoạt động M &A tiếp tục diễn ra sôi động do đây là một hình thức đầu tư ngày càng phổ biến và tiện lợi; do sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua; do nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao những cơ hội đầu tư tại Việt Nam cũng như do những cam kết của Chính phủ Việt Nam trong lộ trình thực hiện khi gia nhập WTO; và do những ảnh hưởng quốc tế với sự góp mặt của hàng loạt quỹ đầu tư trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, quy định về hợp nhất doanh nghiệp của Luật Cạnh tranh không hoàn toàn phù hợp với Luật Doanh nghiệp. Ta dễ dàng nhận thấy, các thuật ngữ trong hai luật này tuy trùng nhau nhưng lại không đồng nhất. Ví dụ nếu so sánh về mặt từ ngữ thấy theo Luật Doanh nghiệp 2005 thì các công ty sáp nhập, hợp nhất phải là công ty “cùng loại nhau” còn ở Luật Cạnh tranh 2004 thì không quy định cụm từ này. Đặc biệt là đối với thủ tục thực hiện hợp nhất doanh nghiệp hầu như phụ thuộc vào Luật Doanh nghiệp 2005. Do đó, việc giải thích hợp nhất doanh nghiệp ở Luật Doanh nghiệp 2005 có ảnh hưởng rất lớn đến thủ tục thực hiện. Một số vấn đề trên đã thể hiện rằng, thực tế thực hiện hợp nhất doanh nghiệp ở nước ta còn nhiều bất cập, gây khó dễ cho các chủ doanh nghiệp trong công cuộc tập chung kinh tế. Những cái vướng khi đã tồn tại ngay trong khái niệm của hợp nhất doanh nghiệp thì khi có mục đích thực hiện các thương vụ sáp nhập, hợp nhất các doanh nghiệp cần chú ý đến ngay từ khái niệm này. Qua quy định ta thấy mua lại doanh nghiệp gồm hai trường hợp: mua lại toàn bộ và mua lại một phần doanh nghiệp. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng trường hợp mua lại toàn bộ doanh nghiệp thì về bản chất chính là hình thức sáp nhập doanh nghiệp. Bởi vì khi mua lại toàn bộ doanh nghiệp, người mua trở thành chủ sở hữu doanh nghiệp cũng như tài sản doanh nghiệp, được hưởng các quyền và nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp đó. Duy có một điểm khác biệt giữa hai hình thức này, đó là việc doanh nghiệp bị mua lại có chấm dứt tồn tại hay không? Tùy thuộc vào ý chí chủ quan của doanh nghiệp mua, nếu doanh nghiệp bị mua chấm dứt tồn tại thì đó chính là sáp nhập, còn nếu nó tiếp tục hoạt động như một chủ thể kinh doanh độc lập thì sẽ trở thành công ty con trong một tập đoàn kinh tế. Và theo quy định về trường hợp mua lại doanh nghiệp thì khi áp dụng trên thực tế phần lớn các giao dịch lớn thường là do các công ty nước ty nước ngoài mua lại một phần hoặc toàn bộ một doanh nghiệp Việt Nam hoặc giữa các doanh nghiệp trong nước, t
Luận văn liên quan