Nguồn vốn đóng vai trò sống còn đối với sự tồn tại của các ngân hàng thương mại nói riêng và với cả các định chế tài chính bởi vì nó chính là kênh lưu chuyển nguồn vốn của toàn nền kinh tế, một nguyên nhân khác cũng không kém phần quan trọng là vì tính nhạy cảm của thị trường loại hàng hóa này. Mỗi ngân hàng là một kênh lưu chuyển vốn, các dòng vốn này thông nhau qua sự tương quan của nó với ngân hàng trung ương và thị trường tài chính. Khác với tính độc lập mang tính cá thể của các loại hình doanh nghiệp khác, sự tồn tại của các ngân hàng nằm trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, cũng giống như dòng nước lưu chuyển giữa các con kênh, hoạt động của mỗi ngân hàng sẽ dễ dàng chịu sự tác động của các ngân hàng khác, nếu một ngân hàng nào trong hệ thống gặp sự cố, sẽ có khả năng tác động xấu tới tất cả các ngân hàng còn lại, nếu không được giải quyết một cách cẩn trọng, nguy cơ sụp đổ hệ thống là hoàn toàn có khả năng xảy ra, vấn đề này đã diễn ra rất nhiều lần trong lịch sử thị trường tài chính của nhiều quốc gia trên thế giới. Chính vì mối tương quan trên, các ngân hàng cần tồn tại trong một môi trường lành mạnh và giữ gìn mối tương quan tốt với các định chế tài chính khác để đảm bảo cho chính sự tồn tại của mình. Nghiệp vụ vay vốn giữa các tổ chức tín dụng xuất phát từ mục tiêu và mối tương quan trên.
Lẽ sống của các ngân hàng thương mại là nhận kí thác và cho vay. Ngân hàng thương mại phải cho vay tới mức mà ngân hàng trung ương cho phép để tối đa hóa lợi nhuận. Nhưng không phải lúc nào hoạt động của các ngân hàng đều thuận lợi. Dầu thận trọng cách mấy trong việc cho vay, ngân hàng thương mại cũng khó tránh khỏi có lúc thiếu khả năng chi trả hoặc quá kẹt tiền mặt. Lúc đó, các ngân hàng thương mại thường cần có một nguồn vốn khá lớn và đặc biệt là tức thời, trong tình cảnh đó, vay của các tổ chức tín dụng khác là một trong những lựa chọn.
58 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2097 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật Việt Nam với hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại và một số kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại.
Một số các vấn đề liên quan.
Tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là một trong những định chế tài chính quan trọng nhất của hệ thống tài chính quốc gia. Nếu đối với sự vận hành của nền kinh tế quốc gia, nguồn vốn được xem như là máu trong một cơ thể sống thì hệ thống các ngân hàng thương mại là các mao mạch chính. Hoạt động của các ngân hàng thương mại là những thể hiện sâu sắc nhất những diễn biến của thị trường tiền tệ nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Ngoài ra, nhìn vào hoạt động của hệ thống các ngân hàng thương mại, chúng ta có thể nhìn thấy sự vận hành của chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia trong từng thời kì cũng như sự hưng thịnh hay trên đà suy vong của nền kinh tế kinh tế quốc gia đó.
Ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp, tuy nhiên hoàn toàn khác với các loại hình doanh nghiệp thông thường khác, các ngân hàng thương mại chịu sự điều chỉnh của một hệ thống pháp luật chuyên ngành với những nguyên tắc điều chỉnh hết sức khắc khe. Vậy nguyên nhân nào tạo nên yêu cầu khác biệt đó? Có thể lí giải từ nhiều góc độ: vị trí, vai trò của các ngân hàng thương mại, yêu cầu an toàn cho nền kinh tế, tính chất rủi ro trong bản chất hoạt động của loại hình doanh nghiệp này,… Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, các đặc tính trên đều xuất phát từ một yếu tố duy nhất, đó là đối tượng kinh doanh của loại hình doanh nghiệp này: tiền tệ.
Theo khoản 1 điều 9 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam “Tiền tệ là phương tiện thanh toán, bao gồm tiền giấy, tiền kim loại và các giấy tờ có giá như tiền”. Xuất phát từ bản chất của tiền tệ là loại tài sản vô hình với giá trị của nó không liên quan gì đến hình thức vật lí của nó mà dựa vào trái quyền hợp pháp trên một lợi ích tương lai nào đó. Tiền tệ, hiều theo nghĩa hẹp là đồng tiền được luật pháp quy định để phục vụ trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia hay nền kinh tế, chính vì vậy, tiền tệ còn được gọi là “tiền lưu thông”. Từ góc độ này, tiền tệ có thể mang hình thức là tiền giấy hoặc tiền kim loại do nhà nước (Ngân hàng trung ương, bộ tài chính,…) phát hành. Tuy nhiên, theo định nghĩa của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam như được nêu trên và cả nghiên cứu trong lĩnh vực tài chính đều sử dụng thuật ngữ tiền tệ theo nghĩa rộng hơn rất nhiều. Tiền tệ lúc này bao gồm tiền (tiền tệ theo nghĩa hẹp) và những loại hình có thể thay thế tiền mặt, chúng còn có tên gọi khác là “near-money” _ công cụ được coi như tiền là các chứng khoán, bản thân chúng không được gọi là tiền nhưng có thể chuyển thành tiền một cách dễ dàng. Để tiền mặt thật sử trở thành tiền tệ, hay nói cách khác muốn nó trở thành một loại hàng hóa có khả năng sinh lợi, các ngân hàng chính là những đầu mối quan trọng để thực hiện chu trình chuyển đổi này. Về cơ bản có thể, có thể diễn đạt cách ngắn gọn như sau, để biến tiềm mặt thành tiền tệ, người ta phải đem tiền mặt đi đổi dưới các hình thức như mua, kí gởi, cho vay…, và như vậy, nó tạo ra lãi suất (giá của hàng hóa tiền tệ) mà tiền mặt không làm được. Và có thể nói đây là phương thức hình thành nguồn vốn quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại, đó chính là bản chất kinh tế cơ bản của hoạt động ngân hàng nói riêng và toàn thị trường tài chính nói chung. Nó chính là khởi phát của hoạt động huy động vốn hiểu dưới góc độ kinh tế sơ khai trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Hệ thống tiền tệ hiện nay (các hệ thống tài chính phát triển)
CUNG ỨNG TIỀN
THÀNH PHẦN CỦA NÓ
M1A
Tiền mặt của nhà nước
Tiền gửi không kì hạn
M1B
M1A
Tiền gửi trong các tài khoản dùng séc
M2
M1B
Các khoản gửi tiết kiệm
Các khoản gửi có kì hạn (ngắn)
Đơn vị nhỏ của tiền gửi có kì hạn (small-denomiation time deposit – CDs)
Trái phiếu ngắn hạn được mua lại của ngân hàng thương mại (overnight REPOs)
Euro đôla nhỏ
Tiền gửi trong các quỹ tín dụng của thị trường tiền tệ (money market fund deposits)
Tài khoản gửi ở thị trường tiền tệ (money market deposit accounts)
M3
M2
Đơn vị lớn của tiền gửi có kì hạn (large-denomination time deposit jumpo)
Trái phiều dài hạn được mau lại của ngân hàng thương mại và các hệ thống tài chính khác (RPs)
Euro đôla lớn
L
Trái phiếu (khoa bạc – công ty – đô thị)
Cổ phiếu (kho bạc – công ty –đô thị)
Trái phiếu tiết kiệm (saving bonds)
Thương phiếu (commercial paper)
Vốn trong hoạt động của ngân hàng:
Bản chất của nguồn vốn.
Vốn trong kinh tế học là một phạm trù tương đối phức tạp và khó tìm được một định nghĩa thống nhất giữa các quan điểm từ trước đến nay. Trong tác phẩm Tư bản luận của mình, Các Mác đã khái quát phạm trù vốn thành phạm trù cơ bản. Theo Các Mác, tư bản là giá trị mang lai giá trị thặng dư. Định nghĩa này thể hiện đầy đủ bản chất của vốn: 1) vốn phải đại diện cho một loại tài sản nhất định nào đó; 2) vốn phải luôn luôn vận động, luôn luôn sinh lời trong quá trình vận động; 3) vốn là một loại hàng hóa và cũng như những loại hàng hóa khác, nó có chủ đích thực. Nói ngắn gọn, vốn là một bộ phận của cãi được dùng vào sản xuất để làm ra của cãi nhiều hơn.
Xuất phát từ vai trò trên, vốn là tiền đề của hoạt động kinh doanh trong toàn xã hội nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng, mọi doanh nghiệp đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận hành và phát triển. Hơn nữa, hoạt động kinh doanh thường xuyên đòi hỏi phải không ngừng được bổ sung một số lượng vốn nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu về tái sản xuất mở rộng, về thanh toán, về dự trữ,… phát sinh ở mọi thời điểm. Trong cơ chế thị trường, lượng vốn kinh doanh biểu hiện thế lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, có tầm quan trọng đối với sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trên thị trường. Chính vì vậy mà thị trường tài chính mà trong đó đóng vai trò chủ chốt là các ngân hàng thương mại luôn có mối quan hệ khắng khít cho hoạt động sản xuất kinh doanh, là nguồn huyết mạch cung cấp cho doanh nghiệp sức sống để tồn tại và phát triển. Đây là căn nguyên làm cho các ngân hàng thương mại trở thành một trong những định chế tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.
Khởi phát nguyên thủy của việc hình thành các ngân hàng thương mại không phải là nhu cầu về vốn mà là nhu cầu về cất giữ tài sản, tuy nhiên, các dịch vụ ngân hàng sơ khai không đơn thuần là “hệ quả phái sinh” từ việc một số chủ thể (tiền thân của các ngân hàng – các tổ chức tín dụng thời sơ khai) nắm giữ một lượng tư bản khổng lồ mà nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này theo quan niệm của tác giả là nhu cầu khách quan của nền kinh tế, nhu cầu về những nguồn vốn với sự đa dạng về thời hạn và quy mô.
Quay trở lại với vấn đề nguồn vốn của các ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại cũng là một loại hình doanh nghiệp, nguồn vốn cũng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với nó tương tự như đối với các doanh nghiệp khác, tuy nhiên, vốn đối với các ngân hàng không đơn thuần chỉ là phục vụ cho nhu cầu mua nguyên vật liệu hay thực hiện các thanh toán chi trả mà nó là đối tượng trực tiếp của hoạt động ngân hàng, nó là “hàng hóa”, là phương tiện hoạt động của các ngân hàng. Chính vì thế, khác với các loại hình doanh nghiệp khác, nhu cầu về vốn của các ngân hàng nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung là rất lớn và có thể nói là không hạn chế về lượng. Xuất phát từ tính chất đó, loại doanh nghiệp đặc biệt này chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay mượn, phần lớn bắt nguồn từ hoạt động bán các trái quyền tiền gửi cho các doanh nghiệp, cá nhân… để cung ứng dịch vụ tín dụng và các dịch vụ khác. Chính nguồn vốn vay mượn này, chứ không phải vốn sở hữu, đã tạo nguồn lực tài chính chủ yếu cho các hoạt động của ngân hàng. Trong giai đoạn đầu của hoạt động ngân hàng, các ngân hàng thường không chủ động trong việc tìm kiếm các nguồn vốn mà thường phụ thuộc vào người gửi tiền. Nhưng kinh tế càng phát triển, các ngân hàng phát hiện ra rằng, nguồn vốn truyền thống theo định hướng tiền gửi không đủ đáp ứng mức cầu tín dụng đang gia tăng của các khách hàng doanh nghiệp và gia đình. Để thảo mãn nhu cầu tín dụng gia tăng của giới doanh nghiệp và cá nhân cần phải có những nguồn vốn mới: vay trên thị trường tiền tệ.
Thị trường tiền tệ giúp các ngân hàng có đầu óc đổi mới phát triển nguồn vốn quan trọng và dồi dào có thể vay mượn cấp thời (vài phút hoặc vài giờ) bằng cách thông qua bất cứ công cụ nào của thị trường tiền tệ (như các chứng chỉ tiền gửi, vay dự trữ, bán lại thương phiếu, …). Nguồn vốn vay trên thị trường tiền tệ làm cho tính chất của các nguồn vốn của các ngân hàng thêm phong phú, hiện nay người ta phân biệt hai loại nguồn vốn của ngân hàng thương mại: nguồn vốn thụ động và nguồn vốn đi mua. Đối với các ngân hàng, nguồn vốn tiền gửi chủ yếu là các nguồn vốn thụ động. Ngân hàng không phải van nài khách hàng, mà khách hàng chủ động đến gửi tiền vì muốn có những tiện ích hay các dịch vụ khác được ngân hàng cung ứng (chủ yếu là an toàn và lãi suất). Ngược lại, vay vốn trên thị trường tiền tệ là nguồn vốn phải đi mua. Ngân hàng sử dụng nguồn vốn này phải tích cực tìm kiếm bất kì nguồn vốn khả dụng nào và trả mức giá ít nhất ngang bằng lãi suất thị trường hiện hành để bảo đảm nhu cầu sử dụng cảu mình. Nét đặc thù của tất cả các nguồn vốn trên thị trường tiền tệ là tính nhạy cảm với giá cả của chúng. Các ngân hàng muốn tiếp cận nguồn vốn này cần cung cấp mức lãi suất cạnh tranh, thậm chí trong một số trường hợp, ngân hàng có thể tạm thời nâng cao mức lãi suất huy động so với lãi suất thị trường hiện hành cho đến khi đủ vốn đáp ứng nhu cầu tín dụng của nó.
Tóm lại, vốn ngân hàng có thể được hiểu là những giá trị tiền tệ ngân hàng tự có, huy động và tạo lập được để thực hiện cho vay, đầu tư và thực hiện các dich vụ ngân hàng. Việc tạo lập và huy động vốn hình thành nên các khoản mục bên tài sản nợ của bảng cân đối tài sản của ngân hàng thương mại. Việc sử dụng vốn để cho vay, đầu tư, thực hiện các dịch vụ ngân hàng hình thành nên các khoản mục bên tài sản có của bảng cân đối tài sản ngân hàng thương mại.
Phân loại nguồn vốn.
Về cơ bản nguồn vốn của ngân hàng có thể được phân loại thành các dạng cơ bản sau:
VỐN TỰ CÓ(vốn chủ sở hữu)
VỐN HUY ĐỘNG
VỐN ĐI VAY
CÁC NGUỒN VỐN KHÁC
Khái niệm
Là nguồn vốn do NHTM tự tạo lập ra, thuộc sở hữu riêng có của NHTM.
Là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ công chúng thông qua việc bán các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng (là vốn do NHTM tạo lập ra thông qua việc thu hút tiền gửi và phát hành giấy tờ có giá).
Là nguồn vốn mà NHTM có được dựa trên mối quan hệ vay mượn trên thị trường liên ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay đã được thiết lập.
Là nguồn vốn hình thành trong quá trình cung cấp dịch vụ ngân hàng cho khách hàng.
Đặc điểm
-Chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (khoảng 5 - 10%) nhưng lại có tính chất Quyết định đến sự hình thành và tồn tại của ngân hàng
-Nguồn vốn này mang tính ổn định cao (vì nó thuộc sở hữu của NHTM và NHTM không có nghĩa vụ phải hoàn trả)
-Không thuộc sở hữu của NHTM.
-Có tính biến động cao, không ổn định (cần phải dự trữ)
-Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM.
-Là loại nguồn vốn đa dạng về: Nguồn gốc hình thành, Thời hạn các khoản huy động, Giá trị các khoản huy động, Loại tiền huy động.
-Không thuộc sở hữu của ngân hàng.
-Chiếm tỷ trọng ko lớn (ko quá lệ thuộc vào nguồn vốn này để kinh doanh)
-Độ ổn định cao hơn nguồn vốn huy động.
-Chi phí cao, lãi suất nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất thị trường.
-Thời hạn rất ngắn (ngày, tuần).
-Không thuộc sở hữu của NHTM.
-Quy mô nhỏ.
-Chi phí ko cao.
-Độ ổn định thấp.
Vai trò
-Bảo đảm an toàn cho hoạt động của NHTM
-Vốn tự có với vai trò hoạt động: mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo điều kiện tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
-Vốn tự có góp phần điều chỉnh mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng (quy mô, giá trị tài sản cố định, cơ cấu tài sản,…)
Là nguồn vốn chủ yếu của các ngân hàng thương mại, đáp ứng hầu hết các nhu cầu về hoạt động tín dụng của các ngân hàng này.
Có vai trò đặc biệt đối với việc kinh doanh của NHTM (giải quyết nhanh nhu cầu, với khối lượng lớn).
Phục vụ cho các hoạt động của ngân hàng thương mại như các ngồn vốn khác.
Thành phần
Thành phần của vốn tự có: gồm vốn tự có cấp 1 (vốn cơ bản) và vốn tự có cấp 2 (vốn bổ sung).
Gồm có 2 phương thức huy động là: huy động tiền gửi và huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá.
Vay NHTW
Vay các NHTM
-Nguồn vốn nhận tài trợ ủy thác đầu tư.
-Nguồn vốn trong thanh toán.
-Nguồn vốn khác: vay nước ngoài, vay công ty mẹ (nếu có), …
Cơ cấu nguồn vốn hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt Nam
(Thống kê ở mức độ tương đối)
Vai trò của hoạt động huy động vốn đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Như đã được trình bày ở trên, ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, vì vậy vai trò của nguồn vốn đối với các ngân hàng thương mại đầu tiên cũng sẽ Quyết định đến quy mô, thế lực và khả năng mỏ rộng quy mô của các ngân hàng. Nhìn từ góc độ kinh tế, có thể khái quát hóa các vai trò của nguồn vốn này đối với hoạt động của một ngân hàng thương mại dưới một vài các khía cạnh sau:
Vốn là cơ sở của hoạt động ngân hàng: NHTM muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn, vốn phản ánh năng lực chủ yếu để Quyết định khả năng kinh doanh.
Để có giấy phép thành lập thì NHTM phải có vốn pháp định.
Để thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình thì NHTM cần phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt hoạt động kinh doanh của mình.
…
Vốn của NHTM Quyết định đến quy mô và khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh của NHTM:
Quy mô của NHTM thể hiện ở Tổng tài sản (tiền, chứng khoán, quy mô cho vay, tài sản cố định, …), nếu nguồn vốn lớn ( tài sản lớn.
Phạm vi: nếu nguồn vốn lớn thì có thể mở rộng hệ thống chi nhánh tại các địa phương ( địa bàn hoạt động rộng.
Khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh: nếu nguồn vốn lớn thì có khả năng cung cấp nhiều loại hình sản phẩm, dịch vụ ( đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, …
Vốn của NHTM Quyết định đến khả năng thanh toán của NHTM đó. Điều này thể hiện như sau:
Nếu nguồn vốn lớn ( dự trữ thực tế lớn ( tạo điều kiện cho NHTM có thể tập trung vốn, ứng phó kịp thời với trường hợp khách hàng rút tiền lớn hơn so với dự kiến ban đầu.
Nếu nguồn vốn lớn ( NHTM có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư (đầu tư trên thị trường chứng khoán: dự trữ thứ cấp) ( tạo điều kiện phân tán rủi ro ( NHTM có điều kiện kinh doanh an toàn hơn.
Nếu nguồn vốn lớn ( NHTM sẽ có uy tín cao trên thị trường ( khi NHTM thiếu hụt trong thanh toán thì có điều kiện thuận lợi trong việc vay mượn và bù đắp kịp thời thiếu hụt trong thanh khoản, …
Nếu nguồn vốn lớn, NHTM thường được sự trợ giúp từ phía Chính phủ vì nếu những NHTM lớn mà sụp đổ thì sẽ ảnh hưởng nặng nề tới hệ thống tiền tệ quốc gia và nền kinh tế.
Vốn của NHTM Quyết định tới khả năng cạnh tranh của NHTM đó. Nếu có nguồn vốn lớn thì NHTM sẽ có ưu thế hơn trong cạnh tranh, điều này thể hiện như sau:
Cạnh tranh về giá:
Nguồn vốn lớn giúp NHTM tạo dựng được lợi thế nhờ quy mô ( do đó giảm được chi phí bình quân ( có điều kiện cạnh tranh về giá.
Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện giao dịch với khách hàng lớn ( giá trị giao dịch lớn ( chi phí giao dịch bình quân cho 1 hợp đồng thấp ( giảm được chi phí bình quân ( cạnh tranh về giá.
Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh ( có điều kiện giảm chi phí bù đắp rủi ro.
Cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ:
Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện để đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, ứng dụng những công nghệ mới.
Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện để nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng khách hàng, …
Thông qua hệ thống các vai trò mang đậm chất kinh tế của nguồn vốn ngân hàng thương mại ta có thể nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn đối với sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng thương mại như thế nào. Tuy nhiên, nhìn vào cơ cấu của nguồn vốn này, có thể nhận thấy vai trò của các nguồn vốn là hoàn toàn không giống nhau và mang đặc tính khá khác nhau và đặc biệt trong một số trường hợp việc huy động các nguồn vốn này chi phí lợi nhuận bị tạm thời bỏ qua (lợi nhuận âm) và xuất hiện các chủ thể đặc biệt. Mặt khác, việc sử dụng các nguồn vốn này bị ràng buộc khá chặc chẽ bởi các quy định pháp luật. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này như được trình bày ở trên chính là xuất phát từ việc đối tượng kinh doanh của các ngân hàng thương mại chính là loại hàng hóa đặc biệt – tiền tệ. Lí giải một cách đơn giản và thực tế hơn đó chính là xuất phát từ vai trò của hệ thống các ngân hàng thương mại trong hệ thống tài chính và nền kinh tế quốc gia, nó là huyết mạch, là đầu tàu nơi các chính sách kinh tế được triển khai nhằm vận hành nền kinh tế theo những chiến lược được định ra từ chính phủ. Vì vậy, khác với các doanh nghiệp thông thường khác, ngoài vai trò kinh tế, nguồn vốn trong các ngân hàng thương mại còn đóng những vai trò khác khá quan trọng được thiết lập từ các quy định của pháp luật. Những nhiệm vụ đó có thể được khái quát như sau:
Đối với nguồn vốn tự có: Khoản 13 Điều 9 Luật Các tổ chức tín dụng quy định: “Vốn tự có gồm có giá trị thực của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản nợ khác của tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân hàng nhà nước. vốn tự có là căn cứ để tính toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng”. Vốn điều lệ và vốn pháp định cũng là những thể hiện của nguồn vốn này.
Vốn pháp định theo quy định của khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp “là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp”.
Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ của ngân hàng. Theo quy định tại khoản 6 Điều 4 của Luật Doanh nghiệp 2005: “Vốn điều lệ là vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất định và được ghi vào Điều lệ công ty.”
Vì vậy, vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại thực tế phải luôn lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định. Có thể nói vốn pháp định là nguồn vốn có vai trò tiên quyết đối với sự hình thành và tồn tại của các ngân hàng thương mại, theo quy định của Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN, đến năm 2010, nếu không đủ số vốn điều lệ theo quy định của Quyết định này, các ngân hàng buộc phải sáp nhập hoặc phải tiến hành giải thể. Ngoài ra, nguồn vốn tựu có này còn Quyết định rất lớn hoạt động và các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại.
Đối với nguồn vốn khác, phương thức điều chỉnh mang tính mềm mỏng hơn và thiên về tính nghiệp vụ cũng hướng tới mục đích chính là đảm bảo an toàn của hệ thống tín dụng, đảm bảo khả năng thanh toán của các ngân hàng. Chẳng hạn, vận dụng nguyên tắc an toàn tín dụng, các khản vốn được huy động ngắn hạn chỉ được dùng để cung cấp tín dụng ngắn hạn, điều 45 Luật Các tổ chức tín dụng quy định chỉ có tổ chức tín dụng là ngân hàng mới có quyền huy động các nguồn vốn ngắn hạn này. Ngoài một số rất ít các quy định mang tính hành chính mệnh lệnh này, để quản lí phương thức sử dụng các nguồn vốn này, nhà nước ta sử dụng các phương pháp mềm dẻo và linh hoạt hơn phù hợp với xu thế phát triển của các nghiệp vụ tài chính trên thế giới. một trong những ví dụ điển hình đó chính là các quy định về bảo hiểm tiền gửi hay các quy định về dự trữ bắt buộc (các vấn đề này sẽ được phân tích cụ thể ở phấn sau).
Những đặc trưng cơ bản của hoạt động huy động vốn.
Nguồn gốc hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm nhất trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Trong giai đoạn sơ khai của hoạt động ngân hàng, những nghiệp vụ này chỉ đơn thuần là hoạt động cất giữ các tài sản có giá nhắm mục đích đảm bảo an toàn, và lúc này, người phải trả phí là người gửi tiền chứ không phải là các ngân hàng, các khoản tiền chỉ được xem đơn thuần là vật được kí gửi chứ hoàn toàn không đóng vai trò là nguồn vốn đối với các ngân hàng thương mại, tiền lúc này khôn