Sự bùng nổ dân số trên Thế Giới chỉ trong một thời gian ngắn đã trực tiếp và gián tiếp gây ra những hậu quả không lường mà chính con người vừa là nguyên nhân gây ra vừa là nạn nhân gánh chịu hậu quả đó. Dân số tăng kéo theo nhu cầu tăng nên để thỏa mãn, nền kinh tế buộc phải tăng trưởng, gia tăng về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Điều này đã khiến con người ngày càng lệ thuộc vào thiên nhiên, khai thác triệt để các nguồn tài nguyên cứ như đang nhầm tưởng các nguồn tài nguyên đều là vô tận. Cùng với sự tăng trưởng đó là các vấn đề xã hội (sự phân biệt giàu nghèo, tệ nạn xã hội, tranh chấp lãnh thổ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, ) và đặc biệt là vấn đề môi trường. Bùng nổ dân số đồng nghĩa với lượng chất thải, khí thải tăng lên với tốc độ chóng mặt, nguồn tài nguyên bị cạn kiệt, ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, Tác động đến môi trường sẽ ngày càng nghiêm trọng khi không có những đầu tư thích đáng cho việc bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển.
Trong những năm qua, phát triển KT-XH ở nước ta vẫn còn phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, năng suất lao động thấp, công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dung còn sử dụng nhiều năng lượng, nguyên liệu và thải ra nhiều chất thải,. Dân số tăng nhanh, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, dịch vụ cơ bản về giáo dục, y tế còn bất cập, tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn triệt để, đang là những vấn đề bức xúc. Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, môi trường ở nhiều nơi bị phá hoại, ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng. Để thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH theo hướng CNH-HĐH, đưa nước Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại, vấn đề môi trường cần phải quan tâm cùng với vấn đề kinh tế và xã hội. Bởi vì, môi trường ô nhiễm và suy thoái sẽ là một bước cản vô cùng lớn đối với sự phát triển KT-XH. Do đó, phát triển bền vững (PTBV) đang là mục tiêu chiến lược quan trọng mà Đảng, Chính phủ và Nhân dân Việt Nam quyết tâm thực hiện.
10 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 11977 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phát triển bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ò
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
KHOA MÔI TRƯỜNG & BẢO HỘ LAO ĐỘNG
Môn học
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
BTKN
Chủ đề : PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Nhóm: 02
Sinh viên
Mã số sinh viên
1
Lê Mai Huế
91102042
2
Nguyễn Thùy Dung
91102018
3
Nguyễn Thị Huyền Trang
91102235
4
Phan Thị Quỳnh Chi
91102010
5
Ma Thị Thùy Giang
91102031
6
Phạm Nguyễn Phương Ngân
91102077
Nộp bài: 23g30 ngày 03/09/2014
Tp. Hồ Chí Minh, 2014
LỜI NÓI ĐẦU
Sự bùng nổ dân số trên Thế Giới chỉ trong một thời gian ngắn đã trực tiếp và gián tiếp gây ra những hậu quả không lường mà chính con người vừa là nguyên nhân gây ra vừa là nạn nhân gánh chịu hậu quả đó. Dân số tăng kéo theo nhu cầu tăng nên để thỏa mãn, nền kinh tế buộc phải tăng trưởng, gia tăng về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Điều này đã khiến con người ngày càng lệ thuộc vào thiên nhiên, khai thác triệt để các nguồn tài nguyên cứ như đang nhầm tưởng các nguồn tài nguyên đều là vô tận. Cùng với sự tăng trưởng đó là các vấn đề xã hội (sự phân biệt giàu nghèo, tệ nạn xã hội, tranh chấp lãnh thổ, xung đột sắc tộc, tôn giáo,) và đặc biệt là vấn đề môi trường. Bùng nổ dân số đồng nghĩa với lượng chất thải, khí thải tăng lên với tốc độ chóng mặt, nguồn tài nguyên bị cạn kiệt, ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái,Tác động đến môi trường sẽ ngày càng nghiêm trọng khi không có những đầu tư thích đáng cho việc bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển.
Trong những năm qua, phát triển KT-XH ở nước ta vẫn còn phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, năng suất lao động thấp, công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dung còn sử dụng nhiều năng lượng, nguyên liệu và thải ra nhiều chất thải,. Dân số tăng nhanh, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, dịch vụ cơ bản về giáo dục, y tế còn bất cập, tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn triệt để,đang là những vấn đề bức xúc. Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, môi trường ở nhiều nơi bị phá hoại, ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng. Để thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH theo hướng CNH-HĐH, đưa nước Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại, vấn đề môi trường cần phải quan tâm cùng với vấn đề kinh tế và xã hội. Bởi vì, môi trường ô nhiễm và suy thoái sẽ là một bước cản vô cùng lớn đối với sự phát triển KT-XH. Do đó, phát triển bền vững (PTBV) đang là mục tiêu chiến lược quan trọng mà Đảng, Chính phủ và Nhân dân Việt Nam quyết tâm thực hiện.
Vậy, PTBV là gì? Nguyên tắc để PTBV ra sao? Và Việt Nam cần làm gì để có một XH PTBV sẽ được nhóm cùng tìm hiểu và trình bày với nội dung dưới đây.
PTBV và nguyên tắc cho PTBV ở Việt Nam.
Định nghĩa
PTBV là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó.
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học".
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai...". Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường.
Sau đó, năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái niệm này, và đã gửi đi một thông điệp rõ ràng tới tất cả các cấp của các chính phủ về sự cấp bách trong việc đẩy mạnh sự hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội cùng với bảo vệ môi trường.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (còn gọi là Hội nghị Rio +10 hay Hội nghị thượng đỉnh Johannesburg) nhóm họp tại Johannesburg, Cộng hòa Nam Phi với sự tham gia của các nhà lãnh đạo cũng như các chuyên gia về kinh tế, xã hội và môi trường của gần 200 quốc gia đã tổng kết lại kế hoạch hành động về phát triển bền vững 10 năm qua và đưa ra các quyết sách liên quan tới các vấn đề về nước, năng lượng, sức khỏe, nông nghiệp và sự đa dạng sinh thái.
Việt Nam là một trong 179 quốc gia đã tham gia và kí kết các văn kiện của Hội nghị thượng đỉnh Trái Đất về Môi trường và Phát triển họp báo tại Rio de Janero năm 1992. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước như Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra và thực hiện cam kết quốc tế, năm 2004, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 153/2004/QĐ-TT ban hành "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam" (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Trong quá trình triển khai, thực hiện, Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam thường xuyên được xem xét để bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển, cập nhật những kiến thức và nhận thức mới nhằm hoàn thiện hơn nữa về con đường phát triển bền vững ở Việt Nam. Tuy nhiên vẫn gồm 5 phần cơ bản sau:
Phần 1: Phát triển bền vững-con đường tất yếu của Việt Nam.
Phần 2: Những lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững.
Phần 3: Những lĩnh vực xã hội cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững.
Phần 4: Những lĩnh vực sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và kiểm soát ô nhiễm cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững.
Phần 5: Tổ chức thực hiện phát triển bền vững.
Nguyên tắc cho PTBV ở Việt Nam theo Chương trình nghị sự 21
Theo Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam, để đạt được mục tiêu về PTBV, trong quá trình phát triển chúng ta cần thực hiện những nguyên tắc chính sau đây:
Thứ nhất, con người là trung tâm của phát triển bền vững. Phát triển bền vững nhằm đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Thứ hai, phát triển kinh tế song hành với đảm bảo an ninh lương thực, năng lượng để phát triển bền vững. Khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và môi trường lâu bền.
Thứ ba, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tos không thể tách rời của quá trình phát triển. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ và có hiệu lực về công tác bảo vệ môi trường. Yêu cầu bảo vệ môi trường luôn được coi là một tiêu chí quan trọng trong việc lập quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội và trong phát triển bền vững.
Thứ tư, quá trình phát triển phải đảm bảo một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và các thế hệ tương lai. Tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho những thế hệ mai sau; sử dụng tiết kiệm những tài nguyên không thể tái tạo được; giữ gìn và cải thiện môi trường sống, phát triển hệ thống sản xuất sạch và thân thiện với môi trường. Sống lành mạnh, hài hòa, gần gũi và yêu quý thiên nhiên.
Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất.
Thứ sáu, phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người có liên quan trong việc lựa chọn các quyết định về phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường.
Thứ bảy, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế thế giới để phát triển bền vững. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu đối với môi trường do quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế gây ra.
Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường với đảm bảo quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Về nguyên tắc thứ hai: Tại Việt Nam, sản xuất nông nghiệp là nguồn thu nhập chính của khoảng 70% người nghèo. Đất đai được phân bố tương đối đồng đều là một nhân tố quan trọng làm nên thành công trong công cuộc xóa đói giảm nghèo trong những thập kỉ qua.Tuy nhiên, trong những năm tới, với áp lực của đô thị hóa, công nghiệp hóa và nền sản xuất theo định hướng thị trường, việc chuyển đổi đất sản xuất nông nghiệp sang các mục đích công nghiệp và thương mại là điều không thể tránh khỏi. Điều này làm nảy sinh mối quan ngại về tác động tiêu cực đối với các hộ gia đình phải thay đổi chỗ ở do sinh kế bị rối loạn, mất an ninh lương thực và những đảo lộn về xã hội cũng như văn hóa. Bên cạnh đó, Việc khai thác ồ ạt các nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn làm đất đai và tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt đã thay đổi cấu trúc sinh kế của các cộng đồng ở nông thôn và vùng xa. Điều này khiến các hộ gia đình bị lệ thuộc vào các công nghệ tốn kém và chắc chắn sẽ đặt thêm gánh nặng lên vai người dân nếu không có những biện pháp hỗ trợ hiệu quả nhằm đảm bảo phát triển bền vững.Ngoài ra về mặt năng lượng ở Việt Nam theo nghiên cứu của Viện Khoa học Năng lượng Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt năng lượng và trong tương lai không xa sẽ trở thành nước nhập khẩu năng lượng. Nếu Việt nam không đảm bảo được khai thác các nguồn năng lượng trong nước một cách hợp lý, nhập khẩu năng lượng sẽ xảy ra khoảng năm 2015 mà nhu cầu về năng lượng để duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao, phát triển bền vững, góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và không ngừng cải thiện đời sống nhân dân.
Trong ngành nông nghiệp, sản xuất lương thực từ mức 19,9 triệu tấn (quy thóc) năm 1990 đã tăng lên tới trên 37 triệu tấn năm 2003; lương thực có hạt bình quân đầu người tăng từ 303 kg năm 1990 lên 462 kg năm 2003, không những bảo đảm an ninh lương thực vững chắc cho đất nước mà còn đưa Việt Nam vào danh sách những nước xuất khẩu gạo hàng đầu của thế giới. Nhờ bảo đảm an ninh lương thực, các cây nông nghiệp hàng hoá và chăn nuôi có điều kiện phát triển. Gạo, cà phê, cao su, hạt điều, chè, lạc, rau quả, thịt lợn, thuỷ hải sản đã trở thành những mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng của Việt Nam.
Năng lượng là ngành then chốt của nền kinh tế, cũng là một trong những ngành có tác động mạnh nhất tới môi trường do hoạt động khai thác than ở các mỏ, khai thác dầu khí trên thềm lục địa, sản xuất và sử dụng nhiên liệu, năng lượng gây ra nhiều chất thải.
Tiêu dùng năng lượng cho sinh hoạt và giao thông vận tải tăng lên dẫn đến việc tiêu thụ nhiều than và xăng dầu hơn so với trước đây làm tăng mức ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, các dạng năng lượng sạch có tiềm năng lớn ở Việt Nam và có thể sử dụng phổ biến ở quy mô gia đình như năng lượng mặt trời, gió, thuỷ điện nhỏ, biogas còn ít được nghiên cứu, ứng dụng và phổ cập. Còn thiếu những chính sách khuyến khích việc phát triển các loại hình giao thông vận tải tiết kiệm, phương tiện vận tải công suất nhỏ và sử dụng năng lượng sạch, thân thiện với môi trường.
Để phát triển bền vững, cần thực hiện những hoạt động ưu tiên sau:
Tăng cường cơ sở pháp luật cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ năng lượng và bảo vệ môi trường. Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý ngành năng lượng, tăng cường năng lực xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển năng lượng.
Lựa chọn công nghệ sản xuất và sử dụng tối ưu các loại hình năng lượng; lựa chọn các công cụ chính sách, xây dựng các chương trình phát triển nhằm thực hiện định hướng chiến lược phát triển bền vững.
Hỗ trợ công tác nghiên cứu, phát triển, chuyển giao và ứng dụng các hệ thống năng lượng không gây hại cho môi trường, bao gồm các nguồn năng lượng mới và nguồn năng lượng có khả năng tái sinh. Khuyến khích sử dụng các công nghệ tiêu tốn ít năng lượng và tích cực thực hiện chương trình tiết kiệm năng lượng. Ưu tiên cho việc phát triển nguồn năng lượng có khả năng tái sinh thông qua việc khuyến khích tài chính và các cơ chế chính sách khác trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia.
Cần có các giải pháp cụ thể về công nghệ và tổ chức quản lý cho từng phân ngành năng lượng nhằm thực hiện các chương trình, dự án làm giảm tác động tiêu cực đối với môi trường trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh và sử dụng năng lượng.
Việt Nam hiện xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng thô và sơ chế, mặc dù đã bước đầu có những chuyển biến tích cực hơn trong cơ cấu mặt hàng theo hướng tăng sản phẩm chế biến. Đẩy mạnh xuất khẩu đồng nghĩa với gia tăng khai thác tài nguyên. Nếu không bảo vệ, tái tạo, đồng thời từng bước chuyển sang chế biến sâu hơn, tinh hơn các nguồn nguyên vật liệu, thì nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ nhanh chóng bị cạn kiệt, môi trường bị quá tải và suy thoái
Hành động để có một xã hội PTBV.
Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, vì vậy đã được các quốc gia trên thế giới đồng thuận xây dựng thành Chương trình nghị sự cho từng thời kỳ phát triển của lịch sử. Tuy mô hình phát triển kinh tế giữa các nước khác nhau ở nhiều đặc trưng nhưng có 3 nội dung khá thống nhất, đó là sự phát triển hài hòa của 3 lĩnh vực cũng là 3 mục tiêu thiết yếu và cốt lõi là Kinh tế – Xã hội – Môi trường.
Mặc dù việc triển khai tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững chưa lâu (2004 – 2014) nhưng chúng ta đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các bước tiếp theo. Có thể nêu một số nét nổi bật.
Lĩnh vực kinh tế: Năm 2012, GDP tăng 5,03%, GDP bình quân đầu người đạt 1.540 USD. Cơ cấu kinh tế cũng có những bước tiến triển tích cực, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP ngày càng tăng, khu vực nông nghiệp trong cơ cấu GDP ngày càng giảm. An ninh lương thực được bảo đảm.
Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế đã góp phần tích cực vào việc phát triển bền vững các lĩnh vực khác.
Lĩnh vực xã hội: Việc chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt tới 20% tổng chi ngân sách; đến năm 2011, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn giáo dục trung học cơ sở. Việc giải quyết việc làm đạt kết quả tích cực: trong 6 năm (2006 - 2011), đã giải quyết được việc làm cho hơn 9 triệu lao động. Năm 2012 đã tạo việc làm mới cho hơn 1,5 triệu người; năm 2013, phấn đấu tạo việc làm cho 1,6 triệu người; tuyển mới dạy nghề cho 1,9 triệu người; thực hiện chiến lược dạy nghề gắn với tạo việc làm. Năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 3,53%, ở khu vực nông thôn là 1,55%. Công tác xóa đói, giảm nghèo có nhiều tiến bộ, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,6% và đến cuối năm 2013 ước còn 7,6%. Năm 2012, Việt Nam xếp thứ 127 trên tổng số 187 nước và vùng lãnh thổ về HDI và được xếp vào nhóm có tốc độ tăng chỉ số HDI cao. Việt Nam hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) do Liên hợp quốc đặt ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015.
Lĩnh vực môi trường trong những năm qua đã được chú trọng hơn. Việc bảo vệ tài nguyên, môi trường đã đi vào nền nếp. Công tác trồng rừng, bảo vệ rừng được quan tâm hơn nên tình trạng cháy và chặt phá rừng đã giảm đi.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trên, không thể không tránh khỏi những sai sót, tồn tại những mặt hạn chế ở cả 3 lĩnh vực kinh tế, xã hội và nhận thức về môi trường mà nguyên nhân chính là tính bền vững chưa được quan tâm đúng mức. Do đó, để giải quyết cơ bản và toàn diện những sai sót và hạn chế còn tồn tại, những việc cần làm dựa trên quan điểm phát triển trong Chiến lược là "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường"; "Phát triển kinh tế-xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học" và 8 nguyên tắc chính trong quá trình phát triển như đã nêu bao gồm:
Thứ nhất, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại có tầm quan trọng đặc biệt bởi “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên”. Có thể chế đầy đủ, các loại thị trường sẽ phát triển mạnh với sức sống mới, được quản lý và giám sát tốt, môi trường cạnh tranh lành mạnh sẽ làm cho việc phân bổ nguồn lực của đất nước cân bằng, tạo điều kiện để tăng trưởng và phát triển kinh tế có hiệu quả cao. Hệ thống thể chế muốn có chất lượng cao và hoạt động thực tiễn theo thể chế có hiệu quả, cần cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia trên tất cả các nội dung về thể chế, tổ chức bộ máy, thủ tục hành chính và tài chính công gắn với một hệ thống phân cấp hợp lý, hiệu quả, nâng cao chất lượng quản trị công. Mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường cần được giải quyết tốt theo hướng chuyển mạnh từ chỗ Nhà nước điều hành nền kinh tế sang Nhà nước kiến tạo và phát triển. Chức năng của Nhà nước là xây dựng, quy hoạch phát triển theo một chiến lược đúng đắn, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và hội nhập quốc tế, tăng cường giám sát và phát hiện các mất cân đối có thể xảy ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an toàn hệ thống; tập trung hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo đảm mọi người dân đều được hưởng thụ thành quả tăng trưởng.
Thứ hai, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Đây là đột phá cội nguồn, quan trọng nhất dựa trên nguyên tắc “Con người là trung tâm của Phát triển bền vững” để làm tăng sức mạnh của quốc gia, tạo ra sức mạnh tổng hợp, có ảnh hưởng quyết định đến việc phát triển kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường, phục vụ đắc lực cho chiến lược phát triển bền vững. Điểm nhấn mới trong khâu đột phá này là đặt việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự gắn kết với việc phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Chính điều này bảo đảm chuyển tiềm tăng trí tuệ của nguồn nhân lực thành những thành quả ứng dụng và sáng tạo khoa học, công nghệ - động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh, bền vững.
Thứ ba, kết cấu hạ tầng là đường dẫn của sự phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện để phân bổ lực lượng sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Một hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ sẽ mở rộng không gian phát triển, kết nối các vùng kinh tế, làm tăng quy mô sản xuất và tăng hiệu quả kinh tế. Đây cũng là phương thức thúc đẩy sự hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện tốt đột phá này, phải thay đổi cách tiếp cận từ khâu quy hoạch, lựa chọn các ưu tiên đến phương thức huy động nguồn lực và thủ tục triển khai các dự án.
Vấn đề môi trường
Vấn đề môi trường là những vấn đề gây hại đến môi trường do các hoạt động của con người hoặc do môi trường tự nhiên gây ra. Các vấn đề môi trường như biến đổi khí hậu, nạn phá rừng, ô nhiễm không khí và nước, ô nhiễm đất, bùng nổ dân số, xói mòn đất, vấn đề hạt nhân, sự cố tràn dầu, hiệu ứng nhà kính,...
Ví dụ về vấn đề ô nhiễm không khí, các chất gây ô nhiễm không khí quy mô lớn là VOC (hợp chất hữu cơ dễ bay hơi) và các hạt bụi nhỏ. Khi nồng độ lớn các chất này được phát ra điều này ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái, vật liệu và sức khỏe cộng đồng.
Phát thải nitơ oxit (N2O), chủ yếu xuất phát từ sản xuất nông nghiệp. Nitơ oxit được phát ra trong quá trình khử nitơ. Ngoài ra, việc áp dụng phân bón gây ra lượng khí thải amoniac (NH3), các oxit nitơ (NOx) và metan CH4), một loại khí nhà kính.
Ngành nông nghiệp được biết đến với sử dụng rộng rãi của thuốc trừ sâu. Ứng dụng này gây ra lượng khí thải của nhiều hóa chất độc hại.
Quá trình công nghiệp khác nhau rất nh