- Trong những thập niên gần đây, xã hội đã có nhiều chuyển biến theo hướng văn minh hiện đại để đáp ứng với trình độ phát triển ngày càng cao, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ sinh học. Do đó đòi hỏi con người phải có kiến thức về khoa học trong đó có bộ môn sinh học. Lĩnh vực công nghệ sinh học ngày càng được phát triển mạnh mẽ và ứng dụng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu. Để có thể tiến kịp với sự phát triển trong lĩnh vực sinh học công nghệ của các nước trên thế giới thì ngay ở những khâu mở đầu chúng ta phải tạo được nền tảng và trang bị một cách vững chắc, biết sử dụng kiến thức áp dụng đạt hiệu quả cao, muốn áp dụng có hiệu quả thì phải có sự luyện tập, thực hành nhiều, thường xuyên.
- Như chúng ta đã biết, Sinh học nói chung và động vật học nói riêng là môn khoa học thực nghiệm, lấy quan sát và thí nghiệm làm phương pháp nghiên cứu chủ yếu. Vì vậy, trong giảng dạy môn Sinh học thì tiết thực hành: Quan sát thí nghiệm có ý nghĩa to lớn. Việc thực hành góp phần củng cố, phát triển các khái niệm động vật học. Khi học sinh được tự mình làm các thí nghiệm và quan sát động vật, các em sẽ tăng cường chú ý, hứng thú với những kết quả thực hành được, giúp các em có những biểu tượng cụ thể về cấu tạo , chức năng và hoạt động sống của động vật, các khái niệm động vật sẽ được “phát triển”, “kiểm tra” và “củng cố”, giúp các em ghi nhớ kiến thức một cách tích cực, vững chắc.
- Mặc khác, việc thực hành còn giúp giáo viên và học sinh:
+ Rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo bộ môn, bao gồm các kỹ năng như: sử dụng kính lúp, kính hiển vi, bộ đồ mổ, Theo dõi và ghi chép các hiện tượng sinh học và động vật sẽ tạo điều kiện cho học sinh tập sự nghiên cứu và khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế đời sống và chăn nuôi. Điều đó có tác dụng trong việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp cho học sinh.
+ Bồi dưỡng năng lực tư duy, rèn luyện trí thông minh, sáng tạo: khi thực hành học sinh phải tự quan sát, ghi chép, phán đoán và tự rút ra kết luận cần thiết, “lý thuyết khoa học” sẽ được chứng minh hoặc được rút ra từ thực tế sinh động do các em tự làm.
+ Gây hứng thú học tập phần động vật học, lòng ham muốn nghiên cứu khoa học và các phẩm chất đạo đức khác.
- Ngoài ra, trong thực hành, học sinh đứng ở vị trí nhà nghiên cứu. Qua đó, cùng với tri thức, các em còn lĩnh hội được cả phương pháp nghiên cứu khoa học bộ môn. Đồng thời, để đi đến kết quả đúng đòi hỏi học sinh phải có tính kiên nhẫn, tự lực, tính chính xác và đôi khi cả óc sáng tạo. Kết quả là các em có sự say mê học tập và các năng khiếu cá nhân được phát triển. Đối với trường THCS, môn Sinh học giúp học sinh tìm hiểu, khám phá thế giới động vật đa dạng, phong phú. Cho nên thực hành giữ vai trò cực kỳ quan trọng, buộc giáo viên phải nghiên cứu để giảng dạy đạt hiệu quả tốt, đó là vấn đề “Phương pháp giảng dạy loại bài thực hành trong giảng dạy phần Động vật học 7” là rất cần thiết đối với bản thân mỗi người giáo viên. Tuy có phần khó khăn trong giảng dạy cũng như làm đề tài này nhưng chắc chắn, tôi sẽ có kinh nghiệm hơn trong quá trình giảng dạy sau này. Đó là lí do tôi chọn đề tài.
25 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 8037 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương pháp giảng dạy loại bài thực hành trong giảng dạy phần Động vật học 7, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Tên đề tài: Phương pháp giảng dạy loại bài thực hành trong giảng dạy phần Động vật học 7.
Họ và tên: ĐẶNG NGUYỄN HUỲNH NHƯ
Đơn vị công tác: Trường THCS Thị Trấn.
1. Lí do chọn đề tài:
- Giúp học sinh học tốt các loại bài thực hành trong giảng dạy động vật học 7, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn ở Trường THCS Thị Trấn.
2. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu:
- Đối tượng: Học sinh lớp 7A1, 7A3 Trường THCS THị Trấn.
- Một số phương pháp giảng dạy loại bài thực hành trong giảng dạy phần Động vật học 7.
- Phương pháp:
+ Phương pháp đọc tài liệu
+ Điều tra, đàm thoại
+ kiểm tra, đối chiếu, tổng hợp.
3. Đề tài đưa ra giải pháp mới:
- Dạy theo hướng tích cực sáng tạo của học sinh.
4. Hiệu quả áp dụng:
- Khi thực hành, học sinh tiếp thu nhanh hơn, khắc sâu kiến thức, tạo được sự hứng thú trong học tập, phát huy tính sáng tạo, chủ động tiếp thu tri thức.
- Kết quả kiểm tra của toàn khối 7 đạt điểm trung bình trở lên: 90%.
5. Phạm vi áp dụng:
- Áp dụng trong giảng dạy môn Sinh học 6, 7, 8, 9 ở Trường THCS Thị Trấn và áp dụng ở các trường THCS trong Huyện,Tỉnh.
Thị Trấn, ngày 10 tháng 4 năm 2010.
Người thực hiện
ĐẶNG NGUYỄN HUỲNH NHƯ
A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- Trong những thập niên gần đây, xã hội đã có nhiều chuyển biến theo hướng văn minh hiện đại để đáp ứng với trình độ phát triển ngày càng cao, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ sinh học. Do đó đòi hỏi con người phải có kiến thức về khoa học trong đó có bộ môn sinh học. Lĩnh vực công nghệ sinh học ngày càng được phát triển mạnh mẽ và ứng dụng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu. Để có thể tiến kịp với sự phát triển trong lĩnh vực sinh học công nghệ của các nước trên thế giới thì ngay ở những khâu mở đầu chúng ta phải tạo được nền tảng và trang bị một cách vững chắc, biết sử dụng kiến thức áp dụng đạt hiệu quả cao, muốn áp dụng có hiệu quả thì phải có sự luyện tập, thực hành nhiều, thường xuyên.
- Như chúng ta đã biết, Sinh học nói chung và động vật học nói riêng là môn khoa học thực nghiệm, lấy quan sát và thí nghiệm làm phương pháp nghiên cứu chủ yếu. Vì vậy, trong giảng dạy môn Sinh học thì tiết thực hành: Quan sát thí nghiệm có ý nghĩa to lớn. Việc thực hành góp phần củng cố, phát triển các khái niệm động vật học. Khi học sinh được tự mình làm các thí nghiệm và quan sát động vật, các em sẽ tăng cường chú ý, hứng thú với những kết quả thực hành được, giúp các em có những biểu tượng cụ thể về cấu tạo , chức năng và hoạt động sống của động vật, các khái niệm động vật sẽ được “phát triển”, “kiểm tra” và “củng cố”, giúp các em ghi nhớ kiến thức một cách tích cực, vững chắc.
- Mặc khác, việc thực hành còn giúp giáo viên và học sinh:
+ Rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo bộ môn, bao gồm các kỹ năng như: sử dụng kính lúp, kính hiển vi, bộ đồ mổ,…Theo dõi và ghi chép các hiện tượng sinh học và động vật sẽ tạo điều kiện cho học sinh tập sự nghiên cứu và khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế đời sống và chăn nuôi. Điều đó có tác dụng trong việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp cho học sinh.
+ Bồi dưỡng năng lực tư duy, rèn luyện trí thông minh, sáng tạo: khi thực hành học sinh phải tự quan sát, ghi chép, phán đoán và tự rút ra kết luận cần thiết, “lý thuyết khoa học” sẽ được chứng minh hoặc được rút ra từ thực tế sinh động do các em tự làm.
+ Gây hứng thú học tập phần động vật học, lòng ham muốn nghiên cứu khoa học và các phẩm chất đạo đức khác.
- Ngoài ra, trong thực hành, học sinh đứng ở vị trí nhà nghiên cứu. Qua đó, cùng với tri thức, các em còn lĩnh hội được cả phương pháp nghiên cứu khoa học bộ môn. Đồng thời, để đi đến kết quả đúng đòi hỏi học sinh phải có tính kiên nhẫn, tự lực, tính chính xác và đôi khi cả óc sáng tạo. Kết quả là các em có sự say mê học tập và các năng khiếu cá nhân được phát triển. Đối với trường THCS, môn Sinh học giúp học sinh tìm hiểu, khám phá thế giới động vật đa dạng, phong phú. Cho nên thực hành giữ vai trò cực kỳ quan trọng, buộc giáo viên phải nghiên cứu để giảng dạy đạt hiệu quả tốt, đó là vấn đề “Phương pháp giảng dạy loại bài thực hành trong giảng dạy phần Động vật học 7” là rất cần thiết đối với bản thân mỗi người giáo viên. Tuy có phần khó khăn trong giảng dạy cũng như làm đề tài này nhưng chắc chắn, tôi sẽ có kinh nghiệm hơn trong quá trình giảng dạy sau này. Đó là lí do tôi chọn đề tài.
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Căn cứ vào đặc điểm tình hình và điều kiện cho phép tập trung nghiên cứu là học sinh lớp 7A1, 7A3 trường THCS Thị Trấn Châu Thành, ngoài ra đối tượng tác động trực tiếp là giáo viên bộ môn.
- Một số phương pháp giảng dạy loại bài thực hành trong giảng dạy phần Động vật học 7.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Kiến thức môn Sinh học rất rộng, vì thời gian nghiên cứu hạn chế nên đề tài chỉ nghiên cứu một số phương pháp giảng dạy loại bài thực hành trong giảng dạy phần “Động vật học 7”, ở trên lớp 7A1, 7A3 năm học 2009-2010( từ tuần 1 đến tuần 20 ) của trường THCS Thị Trấn Châu Thành
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đọc tài liệu:
- Sách tham khảo:
+ Động vật không xương sống, động vật có xương sống
+ Phương pháp mổ động vật
- Sách giáo viên sinh 7
- Sách giáo khoa sinh 7
2. Điều tra, đàm thoại qua đó biết chính xác kỹ năng thực hành, hứng thú học tập của học sinh, từ đó có cơ sở thực tiễn nhằm giúp cho đề tài đưa ra phương pháp giảng dạy loại bài thực hành phù hợp với thực tiễn học tập của học sinh ở trường.
3. Dự giờ đồng nghiệp rút ra kinh nghiệm và học hỏi từ đồng nghiệp về vấn đề mà đề tài đã đưa ra.
4. Kiểm tra, đối chiếu:
- Kiểm tra:
+ Giáo viên áp dụng sáng kiến kinh nghiệm mới trên lớp
+ Cho học sinh làm kiểm tra
- Quan sát:
+ Cách tiến hành của học sinh
+ Quan sát khả năng vận dung kiến thức đã học ở bài thực hành vào việc lĩnh hội tri thức mới.
- Phân tích tổng hợp: Sau khi đọc tài liệu và phân tích đối tượng học sinh đã tìm hiểu để vận dụng các phương pháp phù hợp, có hiệu quả. Tổng hợp kết quả thu thập được trong thực tế, qua đó thấy được hiệu quả khả thi của đề tài.
á GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
- Hiện nay khoa học Sinh học đã và đang từng bước phát triển vượt bậc, mang lại nhiều lợi ích vô cùng to lớn cho nước nhà, nhất là trong bối cảnh nước ta thực hiện Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và qua 3 năm gia nhập vào tổ chức kinh tế thế giới “WTO”.
- Vì vậy, việc giảng dạy môn Sinh học ở các trường THCS đóng vai trò hết sức quan trọng. Do đó, để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Sinh và giúp học sinh có hứng thú học tập, yêu thích bộ môn Sinh học, nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của lĩnh vực khoa học Sinh học thì nhất thiết trong quá trình giảng dạy, mỗi giáo viên cần phải dạy tốt qua từng tiết trên lớp, tạo điều kiện cho học sinh học tốt.
- Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn một số giáo viên chưa thật sự quan tâm đến vấn đề này dẫn đến học sinh học tập chưa tốt vì:
+ Khâu chuẩn bị bài, dụng cụ, đồ dùng học tập chưa tốt.
+ Học sinh có ý thức học tập kém ngại tham gia thực hành.
+ Một số học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên thời gian dành cho công việc học tập ít.
+ Do tác động của nền kinh tế thị trường nên một phần lớn giáo viên chưa thật sự đầu tư chu đáo, chưa nhiệt tình trong công tác giảng dạy của mình, chưa tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Vì vậy, trong mỗi tiết học vẫn còn nhiều học sinh thụ động, chờ đón kiến thức áp đặt từ giáo viên hoặc từ học sinh khá, giỏi của lớp.
- Vậy làm sao khắc phục những nguyên nhân trên, giúp cho học sinh học tốt trong từng tiết, đặc biệt là các tiết thực hành, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Sinh ở trường THCS? Đó là kim chỉ nam dẫn dắt, lôi cuốn tôi đến những phần sau của đề tài này, đồng thời giúp tôi rút ra được những kết luận quan trọng và bổ ích.
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Các văn bản chỉ đạo của cấp trên:
- Nghị quyết Trung ương 2(khóa VII) của Đảng khẳng định “Phải đổi mới phương pháp dạy học, khắc phục lối truyền đạt kiến thức một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học”. Việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay chính là việc dạy tốt và học tốt theo hướng lấy người học làm trung tâm của quá trình dạy học. Muốn vậy, giáo viên cần phải nắm vững và vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong từng tiết dạy của mình.
- Chỉ thị số 07/2002/CT-CT ngày 10 tháng 5 năm 2002 của Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh về việc “Tổ chức thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông”.
- Kế hoạch số 27/PGD.ĐT- ĐTBD ngày 26 tháng 7 năm 2002 về việc “Tổ chức thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông”.
2. Các quan niệm khác về giáo dục.
2.1 Tác dụng của phương pháp thực hành:
- Phương pháp thực hành là một trong những phương pháp dạy học khám phá có hướng dẫn, có tác dụng rèn luyện tập dượt cho học sinh làm quen dần với phương pháp nghiên cứu của khoa học thực nghiệm, đồng thời trau dồi cho các em cả phương pháp nhận thức tích cực, chuẩn bị cho các em thực sự trở thành những con người làm chủ xã hội, người lao động “có văn hóa”. Sau này, dễ có khả năng thích ứng cao trong hoàn cảnh khoa học kỹ thuật tiến bộ phát triển với nhịp độ cao và thường xuyên đổi mới. Phương pháp thực hành cũng giúp các em tích cực chiếm lĩnh kiến thức mà không phải do thầy cô truyền đạt, không phải tiếp thu một cách thụ động. Ngoài ra, còn giáo dục các em có tính kiên trì, bền bỉ, trung thực… trong học tập.
2.2 Tác dụng của dạy học:
- Quá trình dạy học bao gồm hoạt động của giáo viên là dạy và hoạt động của học sinh là học.
- Học là lao động có tổ chức của học sinh được thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo viên với mục đích tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát triển khả năng nhận thức, rèn luyện niềm tin và hình thành nhân cách.
- Hoạt động của giáo viên và học sinh gắn bó khắng khít với nhau: Thiếu sự tích cực của học sinh trong quá trình lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thì không hình dung được vai trò hướng dẫn của giáo viên, thiếu sự hướng dẫn cần thiết của giáo viên thì không tổ chức được hoạt động học tập có mục đích của học sinh.
2.3 Vì sao học phải đi đôi với hành:
- Con người luôn vận dụng những kiến thức đã học để áp dụng vào sản xuất hoạt động sống để tạo ra vật chất, phát triển kinh tế - văn hóa, đem lại lợi ích to lớn cho đất nước. nếu chỉ học mà không vận dụng kiến thức đã học vào hoạt động sống thì kiến thức trở nên vô ích, chỉ là lý thuyết suông. Nếu như làm việc gì mà không nắm được quy trình để tiến hành thực hành thì khi thực hiện thao tác thực hành rất vất vả, đôi khi không đem lại kết quả. Trong động vật học, kiến thức rất đa dạng, phong phú, nếu học sinh không thực hành sẽ ảnh hưởng đến việc tiếp thu tri thức, tính sáng tạo của học sinh. Đặc biệt là trong giảng dạy theo phương pháp mới, học sinh giữ vai trò chủ động trong tiếp thu tri thức, còn giáo viên giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý giúp học sinh tìm tri thức. Việc thực hành vừa phù hợp với phương pháp mới, vừa phù hợp với đặc thù bộ môn, giúp học sinh:
+ Có được kỹ năng, kỹ xảo: quan sát, mổ, nhận xét, vẽ hình: khi mổ nhiều động vật học sinh có được thao tác mổ nhanh, đẹp, chính xác, sử dụng đồ mổ một cách thành thạo, qua mẫu mổ học sinh quan sát được các cơ quan, hệ cơ quan, thông qua sự khác biệt về cấu tạo, học sinh thấy được sự tiến hóa, nguồn gốc của động vật giúp các em có kỹ năng phân tích tổng hợp…
+ Khắc sâu kiến thức đã học: khi tự tay mình tiến hành thực hành thì bản thân các em sẽ dễ hiểu và nhớ kiến thức lâu hơn.
+ Có được hứng thú học tập động vật học, thích tìm hiểu.Trong quá trình thực hành chính mắt các em thấy được những điều mới lạ về giới động vật, làm “trỗi dậy” tính tò mò, tìm hiểu, khám phá về động vật để chủ động tiếp thu tri thức và trở thành nhà nghiên cứu nên có được sự hứng thú học tập.
+ Có năng lực tư duy, trí thông minh, sáng tạo: khi làm thực hành học sinh tự mình quan sát, ghi chép, phán đoán kết quả và tự mình rút ra kết luận buộc các em phải tư duy, suy nghĩ, từ đó phát triển thông minh, óc sáng tạo.
- Chính vì vậy, giáo viên phải tổ chức cho học sinh thực hành để các em tự mình khám phá, tìm hiểu về giới động vật nhằm phát triển kỹ năng, kỹ xảo và tạo ra những con người năng động, sáng tạo.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực tiễn vấn đề nghiên cứu
1.1. Tình hình học sinh
- Đa số học sinh rất thích tiến hành thực hành, khi tự tay mình tiến hành mổ động vật các em có được kỹ năng: mổ chính xác, thực hiện thao tác nhanh, trình bày mẫu mổ đẹp – khoa học, có niềm tin khoa học, nêu được cấu tạo cơ thể động vật vững chắc.
- Bên cạnh đó vẫn còn một số học sinh có tính rụt rè, nhút nhát không chịu tham gia tiến hành thực hành mà chỉ quan sát nên tiếp thu tri thức của các em chưa được vững chắc, không có kỹ năng mổ, không biết cách trình bày mẫu mổ, thực hiện thao tác mổ còn lúng túng khi giáo viên yêu cầu mổ dẫn đến: mổ chưa đạt, thao tác chậm, xác định các hệ cơ quan trên mẫu chưa chính xác, vẽ hình và ghi chú thích hình vẽ chưa rõ ràng…
1.2. Tình hình giáo viên
- Nắm vững phương pháp giảng dạy loại bài thực hành.
- Có kỹ năng kỹ xảo mổ động vật.
- Dự giờ đồng nghiệp về phương pháp giảng dạy loại bài thực hành còn hạn chế nên chưa có nhiều kinh nghiệm cũng như chưa nắm bắt được nhiều phương pháp giảng dạy của đồng nghiệp về loại bài thực hành.
1.3. Thực trạng trường lớp, đồ dùng dạy học
- Ban giám hiệu phân công đúng chuyên môn, luôn tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Những dụng cụ phục vụ tiết thực hành như: khay mổ, đồ mổ, kính lúp,…rất nhiều đủ để cho học sinh tiến hành thực hành.
- Tuy nhiên, do trường chưa có phòng thực hành nên việc dạy thực hành còn gặp nhiều khó khăn, tiết thực hành phải thực hiện trên lớp đôi khi ảnh hưởng đến những lớp bên cạnh, việc di chuyển dụng cụ thực hành cũng mất nhiều thời gian.
1.4. Hoàn cảnh gia đình và sự quan tâm của phụ huynh học sinh
- Phụ huynh chưa tạo điều kiện quan tâm giúp đỡ học sinh đúng mực.
- Phong trào tự học chưa cao.
á Những khó khăn trên đã ảnh hưởng đến chất lượng, làm hạn chế khả năng tiếp thu tri thức của học sinh do đó muốn nâng cao chất lượng bộ môn giáo viên cần phải tìm giải pháp mới để đưa chất lượng lên cao hơn, tạo được sự hứng thú ở học sinh.
2. Phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng
2.1. Các loại thực hành động vật học
- Phần lớn các tiết thực hành động vật được tiến hành với các bài tập và quan sát thí nghiệm. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào nội dung và tính chất có thể chia làm 2 loại:
á Thực hành khảo sát: ( thí nghiệm học tập của học sinh ).
- Đây là những thí nghiệm học sinh không biết trước kết quả của thí nghiệm, học sinh tự làm hoặc có sự giúp đỡ của giáo viên ở mức độ nhất định. Sau đó học sinh tự mình rút ra kết luận của vấn đề nghiên cứu.
Ví dụ: Nghiên cứu tác dụng của các loại vây cá chép, quan sát mẫu mổ chim bồ câu để làm căn cứ tìm tri thức mới.
á Thực hành củng cố minh họa:
- Sau khi học xong về lý thuyết, học sinh tiến hành thực hành để kiểm tra lý thuyết, đào sâu và khắc sâu kiến thức.
Ví dụ: Mổ giun đất, dựa vào kiến thức đã học quan sát cấu tạo trong xác định tên, vị trí của các hệ cơ quan trên mẫu mổ.
2.2. Các hình thức tổ chức thực hành
- Tùy tình hình dụng cụ thí nghiệm, nội dung và yêu cầu cụ thể của từng loại thực hành mà ta có thể tổ chức thực hành với 2 hình thức:
á Thực hành đồng loạt:
- Chia lớp thành từng nhóm, các nhóm cùng hoàn thành một nội dung thực hành với những dụng cụ và thời gian như nhau. Sau khi hoàn thành nội dung thực hành, các nhóm báo cáo kết quả từ đó rút ra kiến thức.
- Hình thức tổ chức theo nhóm và tiến hành đồng loạt có những ưu điểm và khuyết điểm sau:
+ Ưu điểm:
Giúp học sinh đỡ lúng túng.
Giáo viên dễ chỉ đạo, dễ kiểm tra kết quả, thuận lợi trong việc uốn nắn những sai sót chung của cả lớp.
Các nhóm tranh luận lẫn nhau, bổ sung cho nhau, vì vậy kết quả chính xác hơn.
+ Nhược điểm:
Không phát huy hết khả năng tự học của học sinh.
Có những học sinh chỉ ngồi cho “có mặt”, nhất là những em lười biếng, thụ động.
á Thực hành riêng rẻ:
- Lớp chia thành các nhóm, các nhóm này làm những nội dung thực hành khác nhau trong cùng khoảng thời gian. Sau đó, các nhóm lần lượt quay vòng nối tiếp nhau để hoàn thành toàn bộ nội dung trong thực hành. Các nhóm báo cáo kết quả thực hành, rút ra kiến thức.
- Loại bài này có ưu và khuyết điểm sau:
+ Ưu điểm:
Giải quyết được tình hình khó khăn khi thiếu dụng cụ thực hành, ít mẫu vật.
+ Khuyết điểm:
Giáo viên gặp khó khăn khi chỉ đạo.
2.3. Những điều cần lưu ý khi tổ chức thực hành
- Trong thực hành cả 2 hình thức tổ chức đồng loạt hay riêng lẻ điều có thể tiến hành ở lớp, ở phòng thực hành hay ở nhà.
- Cần chú ý đặc điểm hoạt động theo mùa và thời tiết của động vật để có kế hoạch chuẩn bị chủ động các mẫu vật cho tiết thực hành trong cả năm.
- Tổ chức thực hành theo nhóm nhỏ, phân chia nhóm nhỏ hợp lý, không quá nhiều để mọi học sinh đều được tự tay làm các bước thực hành.
- Giáo viên có kế hoạch theo dõi, kiểm tra, đánh giá chính xác kịp thời công việc của học sinh, sự quan tâm giúp đỡ của giáo viên không có nghĩa là làm mất đi tính tự lực, sáng tạo của học sinh, nhiều khi không phải là sự uốn nắn sai sót mà chỉ một câu xác nhận cách tiến hành của học sinh là đúng cũng là sự khen ngợi, có tác dụng kích thích học sinh cố gắng tốt hơn nữa.Việc đánh giá cuối buổi để tuyên dương những học sinh làm tốt, giữ trật tự hoặc phê bình học sinh có khuyết điểm cũng có ý nghĩa giáo dục và giáo dưỡng rất to lớn.
- Dự tính thời gian từng phần của buổi thực hành một cách hợp lý. Đây là khâu quan trọng để đảm bảo thành công của bài thực hành. Đối với bài lý thuyết nhìn chung giáo viên dễ làm chủ thời gian ở mỗi phần, song đối với bài thực hành thì không đơn giản, giáo viên phải tự mình làm trước các buổi thực hành để lường tất cả những thuận lợi và khó khăn. Sau đó, tổ chức cho cán sự của nhóm làm trước để “đo thời gian” cho từng phần, giáo viên phải dành thời gian cho việc giới thiệu mục đích yêu cầu, hướng dẫn phương pháp, dự kiến thời gian quan sát (thí nghiệm thực hành) mẫu mổ và dành thời gian 5 phút cho việc thu dọn dụng cụ, vệ sinh phòng.
- Vẽ hình: là yêu cầu phổ biến đối với hầu hết bài thực hành động vật, song đa số học sinh chưa biết cách vẽ theo tiêu chuẩn của bản vẽ khoa học. Vì vậy giáo viên cần lưu ý:
+ Vẽ hình phải trung thực: chỉ vẽ những gì các em thấy khi quan sát trên vật thật.
+ Hình vẽ phải đúng tỉ lệ tương đối giữa các phần của con vật hoặc bộ phận của một hệ cơ quan.
+ Nên vẽ bằng bút chì đen.
+ Hình vẽ không quá bé, các đường chú thích phải song song nhau và mũi tên đánh dấu quay vào các cơ quan để đảm bảo tính chính xác, nếu hình vẽ có nhiều chú thích có thể dùng kí hiệu 1, 2, 3,…và ghi chú thích theo các số đo dưới hình vẽ ngay ngắn thẳng hàng để hình vẽ sáng và đẹp.
2.4. Các khâu công việc cụ thể khi tổ chức dạy một bài thực hành:
- Khâu chuẩn bị:
+ Giáo viên lập kế hoạch bài giảng. Trong đó xác định rõ: mục đích, yêu cầu, hình thức thực hành, cách tổ chức, dụng cụ, mẫu vật, nội dung và phương pháp.
+ Xác định rõ học sinh phải chuẩn bị những gì, nhận định rõ nội dung nào phải làm trước.
- Khâu tiến hành thực hành:
+ Tổ chức thực hành:
Giáo viên chia nhóm( 6-8 em), kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh.
Giáo viên giới thiệu dụng cụ được sử dụng trong giờ thực hành, nêu yêu cầu của tiết thực hành.
+ Tiến hành thực hành:
Giáo viên hướng dẫn cách tiến hành thực hành một cách cụ thể, rõ ràng, có tranh ảnh, mẫu vật kèm theo để minh họa.
Hướng dẫn học sinh viết thu hoạch: Giáo viên đặt ra hệ thống câu hỏi gợi mở để học sinh dựa vào đó viết thu hoạch.
Học sinh tiến hành thực hành: Học sinh thực hiện đúng theo sự hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên quan sát, theo dõi gíúp đỡ, động viên học sinh.
Học sinh báo cáo kết quả thực hành: đại diện nhóm báo cáo kết quả, nhóm khác nhận xét, bổ sung rút ra kết luận. Giáo viên tổng kết kết quả thực hành.
+ Khâu tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm:
Giáo viên phân tích kết quả thực hành của học sinh, giải đáp các thắc mắc do học sinh nêu ra. Nhận xét về kỹ năng thực hành của học sinh
Biểu dương các cá nhân, các nhóm làm tốt, tích cực. Phê bình, nhắc nhở