Quyền sở hữu là một trong những quyền cơ bản, quan trọng nhất của công dân, nên pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định để bảo vệ quyền sở hữu. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 cũng đã dành Phần thứ hai với tổng số 117 điều (từ Điều 163 đến Điều 279) để quy định về “Tài sản và quyền sở hữu”. Trên thực tế có rất nhiều chủ sở hữu bị xâm phạm tới các quyền sở hữu của mình. Chính vì lẽ đó mà Nhà nước đã có những quy định về việc bảo vệ quyền sở hữu của các chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp thông qua các phương thức bảo vệ quyền sở hữu khác nhau. Bên cạnh những biện pháp được quy định trong các ngành luật khác như ngành luật hành chính, ngành luật hình sự thì để bảo đảm cho chủ sở hữu thực hiện có hiệu quả quyền khởi kiện bảo vệ quyền sở hữu, pháp luật dân sự ghi nhận các phương thức kiện khác nhau phù hợp với thực tiễn xâm hại quyền sở hữu: Kiện đòi tài sản; kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp; kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn những quy định về bảo vệ quyền sở hữu, em đã lựa chọn đề tài: “Phương thức bảo vệ quyền sở hữu – Một số vẫn đề lí luận và thực tiễn.”. Tuy nhiên, vốn kiến thức về thực tế cũng như khả năng đào sâu tìm hiểu vấn đề còn hạn chế nên bài làm không thể tránh khỏi thiếu sót. Bởi vậy, em mong có được sự đống góp ý kiến của các thầy cô giáo bộ môn để bài làm được hoàn chỉnh hơn.
20 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2075 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phương thức bảo vệ quyền sở hữu – Một số vẫn đề lí luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Quyền sở hữu là một trong những quyền cơ bản, quan trọng nhất của công dân, nên pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định để bảo vệ quyền sở hữu. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 cũng đã dành Phần thứ hai với tổng số 117 điều (từ Điều 163 đến Điều 279) để quy định về “Tài sản và quyền sở hữu”. Trên thực tế có rất nhiều chủ sở hữu bị xâm phạm tới các quyền sở hữu của mình. Chính vì lẽ đó mà Nhà nước đã có những quy định về việc bảo vệ quyền sở hữu của các chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp thông qua các phương thức bảo vệ quyền sở hữu khác nhau. Bên cạnh những biện pháp được quy định trong các ngành luật khác như ngành luật hành chính, ngành luật hình sự thì để bảo đảm cho chủ sở hữu thực hiện có hiệu quả quyền khởi kiện bảo vệ quyền sở hữu, pháp luật dân sự ghi nhận các phương thức kiện khác nhau phù hợp với thực tiễn xâm hại quyền sở hữu: Kiện đòi tài sản; kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp; kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn những quy định về bảo vệ quyền sở hữu, em đã lựa chọn đề tài: “Phương thức bảo vệ quyền sở hữu – Một số vẫn đề lí luận và thực tiễn.”. Tuy nhiên, vốn kiến thức về thực tế cũng như khả năng đào sâu tìm hiểu vấn đề còn hạn chế nên bài làm không thể tránh khỏi thiếu sót. Bởi vậy, em mong có được sự đống góp ý kiến của các thầy cô giáo bộ môn để bài làm được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cám ơn!
NỘI DUNG
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU VÀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
Theo Điều 164 BLDS (BLDS) của Việt Nam thì: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật”. Như vậy quyền sở hữu bao gồm ba quyền năng cơ bản: Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản tức là việc người chiếm hữu giữ vật trong phạm vi kiểm soát của mình, ví dụ, cất tiền bạc, tư trang trong tủ… Quản lý tài sản được hiểu là việc người chiếm hữu, kiểm soát sự tồn tại của tài sản và việc sử dụng tài sản; quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản; quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu tài sản. Từ nội dung này cho thấy chủ sở hữu một tài sản có toàn quyền đối với tài sản thuộc sở hữu của mình.
Theo lý luận truyền thống của luật dân sự thì bảo vệ quyền sở hữu được hiểu là những biện pháp trong khuôn khổ pháp luật tác động đến hành vi xử sự của con người, nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu, khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Còn phương thức bảo vệ quyền sở hữu là cách thức mà Nhà nước và chủ sở hữu sử dụng để bảo vệ chủ sở hữu khỏi những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu, khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Quyền sở hữu được bảo vệ bằng các biện pháp hình sự, hành chính hay dân sự. BLDS năm 1995 đã dành hẳn Chương XV (Phần thứ hai), bao gồm 7 điều từ Điều 255 đến Điều 261 để quy định về bảo vệ quyền sở hữu. Ngoài ra, quy định về bảo vệ quyền sở hữu còn nằm rải rác ở một số điều khác, theo đó, chủ sở hữu có quyền bảo vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức sau:
Tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu;
Yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại;
Yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
Biện pháp hành chính
Ngành luật hành chính bảo vệ quyền sở hữu thông qua việc quy định những thể lệ nhằm quản lý và bảo vệ tài sản của Nhà nước, quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể cho từng cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính. Đồng thời, luật hành chính cũng quy định về các biện pháp hành chính mà Nhà nước được sử dụng để thực hiện việc bảo vệ quyền sở hữu khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản nhà nước như các biện pháp cưỡng chế, phòng ngừa và ngăn chặn. Chủ thể thực hiện quyền bảo vệ này chính là các cơ quan Nhà nước và trong một số trường hợp nhất định thì Toà án cũng là chủ thể sử dụng các biện pháp hành chính nhằm bảo vệ quyền sở hữu.
Biện pháp hình sự
Ngành luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu thông qua việc quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền sở hữu bị coi là tội phạm và quy định các mức hình phạt tương đương. BLHS các tội xâm phạm quyền sở hữu tại chương XIV từ điều 133 đến điều 145, trong đó chia làm 2 nhóm chính: các tội xâm phạm quyền sở hữu của công dân và tội xâm phạm quyền sở hữu của nhà nước. Một trong những đặc điểm chung của các các tội xâm phạm sở hữu là dấu hiệu mục đích phải nhằm chiếm đoạt tài sản (từ điều 133 đến điều 142, chỉ có hai tội không có mục đích chiếm đoạt tài sản là các tội chiếm giữ trái phép tài sản quy định tại Điều 141 và tội sử dụng trái phép tài sản quy định ở Điều 142 BLHS. Tùy theo tính chất mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội và giá trị tài sản xâm phạm mà mỗi hành vi có một hình phạt tương ứng. Hính phạt thấp nhất là cải tạo không giam giữ và cao nhất là tử hình. Ngoài ra, người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu còn có thể bị chịu một trong các hình phạt bổ sung như phạt tiền, tịch thu tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, quản chế hoặc cấm cư trú.
Biện pháp dân sự
Khác với các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu do luật hành chính và luật hình sự, chủ thể thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu do Nhà nước thực hiện thì thông qua biện pháp dân sự, cá nhân, tổ chức bị xâm phạm quyền sở hữu có thể dùng các phương thức dân sự để tự bảo vệ quyền sở hữu hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền sở hữu cho mình.
Điều 255 BLDS quy định “chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng các quy định của pháp luật”. Quyền tự bảo vệ quyền của chủ sở hữu được hiểu là quyền của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có thể dùng bất kỳ biện pháp mà pháp luật không cấm để bảo vệ tài sản và quyền sở hữu tài sản của mình như cất giữ, quản lý… Ngoài ra, quyền tự bảo vệ của chủ sở hữu còn gắn liền với quyền ngăn cản bất kỳ chủ thể nào khác có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình; có quyền truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật.
Bên cạnh quyền tự bảo vệ, pháp luật dân sự còn quy định cho chủ sở hữu , người chiếm hữu hợp pháp có quyền “yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Những phương thức này gọi chung là phương thức kiện dân sự - phương thức được áp dụng khi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thể tự mình bảo vệ được quyền sở hữu trước hành vi xâm hại của chủ thể khác gây ảnh hưởng tới việc thực hiện quyền của chủ sở hữu của mình.
Xuất phát từ tính chất đa dạng trong bản thân sự xâm hại tới quyền sở hữu mà phương thức kiện dân sự cũng có rất nhiều loại khác nhau. Chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp có quyền lựa chọn một trong ba phương thức kiện sau đây khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định:
Kiện đòi lại tài sản (kiện vật quyền):
Hình thức kiện này diễn ra khá phổ biến tại các Toà án trong những năm vừa qua, đặc biệt là kiện đòi nhà, đất. Quyền đòi lại tài sản là quyền của chủ sở hữu kiện yêu cầu một người đang chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của mình phải trả lại cho mình. Khi xây dựng cơ chế kiện đòi lại tài sản, các nhà làm luật Việt Nam đã rất cân nhắc trong việc làm sao phải bảo đảm sự hài hoà giữa yêu cầu bảo vệ chủ sở hữu với bảo vệ quyền lợi chính đáng của người chiếm hữu ngay tình cũng như bảo đảm tính ổn định trong lưu thông dân sự. Vì vậy, một mặt, BLDS đã thiết kế các quy tắc kiện đòi lại tài sản dựa vào tiêu chí phân biệt giữa người chiếm hữu ngay tình và người chiếm hữu không ngay tình và mặt khác, dựa vào việc phân định giữa tài sản phải đăng ký quyền sở hữu và tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu. Tuy nhiên điều kiện chung áp dụng cho phương thức kiện đòi tài sản được quy định tại Điều 256, 257, 258 BLDS khi có các điều kiện sau:
Vật rời khỏi chủ sở hữu hay dời khỏi người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ; hoặc theo ý chí của họ nhưng người thứ ba có vật thông qua giao dịch không đền bù như tặng cho, thừa kế theo di chúc;
Người thực tế đang chiếm giữ vật là người chiếm giữ bất hợp pháp;
Vật hiện đang còn trong tay người chiếm hữu bất hợp pháp;
Vật là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp khác do pháp luật quy định.
Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp.
Đây là phương thức cho phép chủ sở hữu kiện tới toà án khi một người nào đó có hành vi trái pháp luật cản trở việc thực hiện quyền sở hữu hay quyền chiếm hữu hợp pháp để quyền yêu cầu người này phải chấm dứt hành vi đó. Nếu người này không tự nguyện chấm dứt thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu Toà án, hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm. Mục đích chính của phương thức này là nhằm bảo đảm để chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường.
Trong thực tế, các tranh chấp có đối tượng là hành vi trái pháp luật như trên chủ yếu liên quan đến bất động sản. Qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp dạng này tại Toà án hoặc Uỷ ban nhân dân các cấp, có thể rút ra một số nhận xét sau:
Trên thực tế, loại việc này thường liên quan đến bất động sản liền kề như nhà ở, công trình xây dựng, quyền sử dụng đất, lối đi chung…
Hành vi là đối tượng của việc kiện phải là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật ở đây được hiểu không chỉ là trái với các quy định của BLDS, mà còn trái với quy định của các văn bản pháp luật khác (như đất đai, xây dựng…). Đặc điểm chung của các hành vi này là cản trở chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp thực hiện những quyền năng của mình trong khuôn khổ pháp luật.
Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền).
Trong trường hợp một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới tài sản của người khác thì chủ sở hữu của tài sản của có quyền kiện tới toà án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Đây được gọi là phương thức kiện trái quyền bởi vì nó chỉ được áp dụng trong trường hợp khi người chiếm hữu hợp pháp hoặc bất hợp pháp đã bán tài sản cho người khác mà không tìm thấy người mua nữa hoặc tài sản bị tiêu huỷ…Lúc này chủ sở hữu không lấy lại đc tài sản của mình và luật cho phép chủ sở hữu lựa chọn phương thức kiện đòi bồi thường thiệt hại.
Có thể thấy rằng việc pháp luật quy định người thứ ba ngay tình phải hoàn trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp sẽ là một bất lợi lớn đối với họ trong rất nhiều trường hợp. Nếu đó là tài sản mà người này đã đầu tư vào kinh doanh (ví dụ máy móc, trang thiết bị kỹ thuật…), thì khi phải trả lại, họ sẽ phải chịu những xáo trộn nhất định trong công việc của mình. Hoặc nếu đó là những tài sản quý hiếm (tranh quý, đồ mỹ nghệ, đồ trang sức…) mà họ đã bỏ tiền ra mua để sưu tập, làm kỷ niệm… nay dù không muốn trả lại thì họ vẫn buộc phải trả lại nếu chủ sở hữu có yêu cầu đòi lại tài sản. Điều 260 BLDS quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại”.
Ngoài chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, người thứ ba ngay tình cũng có quyền khởi kiện yêu cầu người đã xác lập giao dịch với mình phải bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền), nếu tài sản bị tịch thu, sung quỹ Nhà nước hoặc trả lại cho người có quyền nhận tài sản đó.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản phát sinh từ hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, pháp nhân như làm mất, phá huỷ, huỷ hoại tài sản… Ý nghĩa của chế định bồi thường thiệt hại về tài sản một mặt là nhằm khôi phục những thiệt hại về vật chất mà người gây thiệt hại đã gây ra cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp; mặt khác, giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng quyền sở hữu tài sản của người khác. Các yếu tố phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật;
Có thiệt hại thực tế xảy ra;
Có lỗi của người gây thiệt hại;
Có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại là phải toàn bộ, kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật, hoặc thực hiện một công việc, về phương thức bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên, người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
Về cơ bản, các quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại đối với tài sản được đánh giá là tương đối hoàn thiện và đã phát huy tác dụng trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
THỰC TRẠNG
Vụ án “Đòi nhà đất” tại Tòa án thành phố Hồ Chí Minh.
Nội dung
Năm 1944, cụ Vũ Tá T và cụ Hoàng Thị N mua của ông Ngô Ngọc Khánh một thửa đất diện tích 90m2 tại số 135 phố TS (số cũ 175 làng An Hạ). Đất được cấp bằng khoán điền thổ mang tên hai cụ, số thửa 42 (Trong giấy tờ mua bán năm 1929 giữa ông Khánh với chủ cũ thì trên đất có một nhà cấp 4). Năm 1946, toàn quốc kháng chiến gia đình hai cụ tản cư về quê. Theo lời khai của ông Vũ Ngọc L (con trai của hai cụ) thì nhà đất khóa cửa để lại, không gửi ai; vào các 1971,1990, 2002 ông L có quay về đòi nhà đất đã bị gia đình ông Đào Văn T chiếm giữ. Thang 4/2003, ông L khởi kiện ra Tòa án nhân dân quận Đ đòi nhà. gia đình ông T không trả và cho rằng nhà đất được thừa kế từ cha, mẹ và gia đình ông đã sử dụng ổn định từ năm 1951 (nộp thuế đầy đủ); năm1991 ông T làm nhà hai tầng và mua thêm một ngôi nhà cấp 4, diện tích 27m2 của anh Nguyễn Văn Đ liền phía sau nhà hai tầng, tổng diện tích hiện gia đình ông T đang sử dụng là 60m2.
Tòa án cấp sơ thẩm xác minh:
+ Nguồn gốc nhà đất gia đình ông T không có nên chưa làm được thủ tục đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất (ông T có lời khác nhau về nguồn gốc: Do cha, mẹ ông lấn chiếm đất ao làm nhà; không rõ mua của ai; do mua 60m2 đất ao của cụ Vũ Tá T, nhưng ông T không có bằng chứng về việc mua bán).
+ Công văn của cơ quan quản lý nhà đất xác định: Nhà số 135 phố TS (Hiện gia đình ông T đang sử dụng) thuộc thửa số 18 bản đồ gốc 104-6G-II-44 có nguồn gốc là một phần thửa số 42 tờ bản đồ số 12 đứng tên cụ Vũ Tá T và vợ là cụ Hoàng Thị N.
Quyết định
- Bản án dân sự sơ thẩm số 19 ngày 6/10/2004 của Tòa án quận Đ quyết định: Xác nhận nhà mang biển số 175 An Hạ (cũ) nay là 135 phố TS thuộc thửa số 18 thuộc quyền sở hữu của cụ T và cụ N Chấp nhận yêu cầu kiện đòi nhà đất của ông Vũ Ngọc L Buộc gia đình ông T. trả lại diện tích nhà đất thực tế đo là 60m2 (gồm 1 nhà 2 tầng diện tích 38m2, 1 nhà cấp 4 diện tích 25m2) cho ông L. Ông L thanh toán giá trị xây dựng cho gia đình ông T.
- Bản án dân sự phúc thẩm số 05 ngày 11/1/2005 của Tòa án thành phố H quyết định: Chấp nhận đơn kháng cáo của ông Đào Văn T, sửa bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án quận Đ: Bác yêu cầu đòi nhà đất của ông Vũ Ngọc L.
Bình luận
Đánh giá chứng cứ: Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng việc xác minh của cấp sơ thẩm về nguồn gốc nhà đất được hiểu không chính xác và không đầy đủ: “Bằng khoán điền thổ số 175 tổng An Hạ” được hiểu là “Nhà số 175”; Phần nhà đất của ông T. có hai thửa, thửa 18 sát đường (có nhà 2 tầng) và thửa 22 (nhà cấp 4) nhưng cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa 18 là không đầy đủ. Trên đất có nhà hay không có nhà chưa có căn cứ.
Nhận định của án phúc thẩm có phần khiên cưỡng, không toàn diện. Việc hiểu bằng khoán điền thổ 175 là nhà số 175 có thể chính xác hoặc chưa chính xác, nhưng thực chất thửa đất số 42 mang bằng khoán 175 và nhà số 175 cũng tọa lạc trên thửa đất 42 đứng tên cụ T và cụ N. Nội dung công văn của cơ quan nhà đất nêu trên đã giải thích: Thửa số 18 (gia đình ông T. đang sử dụng) là 1 phần của thửa số 42 mang tên cụ T và cụ N thuộc bằng khoán điền thổ số 175. Cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa số 18 vì trước đó ngày 4/6/1998 cơ quan địa chính đã lập “Biên bản xác định mốc giới theo hiện trạng sử dụng đất” thửa số 18 có diện tích 60,8m2 (gồm cả thửa 18 và thửa 22), việc nhập hai thửa vào một có đơn đề nghị của ông T (tài liệu được lưu trong hồ sơ). Như vậy, kết luận của cấp phúc thẩm không có căn cứ.
Về nhà trên đất: năm 1929, khi ông Khánh mua của chủ cũ, hợp đồng thể hiện có nhà cấp 4. Hợp đồng mua bán giữa ông Khánh với hai cụ không thể hiện có nhà, cấp phúc thẩm nhận định chưa đủ căn cứ xác định có nhà trên đất. Tuy nhiên cấp phúc thẩm cũng chưa có căn cứ để khẳng định điều này, để làm rõ tình tiết về nhà, cần xác minh việc cụ T cụ N có ở tại thửa đất này từ khi mua (năm 1944) đến khi đi tản cư; tờ biên lai nộp thuế thổ trạch năm 1953 ghi tên bà Th (mẹ ông T) nộp tiền, nhưng có dòng chữ ghi tên cụ Vũ Tá T.
Áp dụng pháp luật: Bản án phúc thẩm nhận định Toà án cấp sơ thẩm áp dụng văn bản pháp luật cũng như xác định quan hệ pháp luật không đúng: Ông L đòi nhà đất mà ông T đã ở từ những năm 1951. Như vậy quan hệ được xác lập trước ngày 1/7/1991, nếu có nhà trên đất thì phải áp dụng Nghị quyết số 58/UBTVQH10 ngày 29/10/1998, nếu chỉ liên quan đến đất thì áp dụng Luật đất đai năm 2003 để giải quyết. Cấp sơ thẩm xác định quan hệ “Đòi nhà đất” và áp dụng quy định của BLDS để giải quyết là không đúng.
Mặc dù nhận định như trên, nhưng Toà án cấp phúc thẩm không chỉ ra căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án; Cấp phúc thẩm quyết định bác yêu cầu đòi nhà đất của ông L với nhận định cho rằng quyết định của cấp sơ thẩm chưa đủ căn cứ, thiếu chính xác là không đúng về tố tụng vì đây chỉ là căn cứ để cấp phúc thẩm quyết định huỷ án sơ thẩm để chứng minh, thu thập chứng cứ làm rõ yêu cầu của ông L.
Vụ án “Đòi bồi thường thiệt hại về tài sản” tại Toà án tỉnh Bến Tre.
Nội dung
Ông Nguyễn Văn Lãnh là chủ sở hữu hai chiếc tàu TG 1986 và BĐ 2539. Ông thuê hai tài công sử dụng tàu đánh bắt tài sản. Khi tàu hoạt động có mua một số nguyên vật liệu của ông Trần Văn Tuấn và Trần Văn Bé. Ông Lãnh cho rằng khoản tiền mua nguyên liệu là do các tài công phải trả vì có thoả thuận miệng giữa ông với tài công về hưởng lợi nhuận và chịu chi phí, nhưng điều này không được các tài công thừa nhận, trong khi ông Lãnh lại ký xác nhận nợ với ông Tuấn và ông Bé. Do việc ông Lãnh không trả nợ cho ông Tuấn, ông Bé nên ngày 8/3/2000 các bên yêu cầu Công an huyện giải quyết và lập biên bản hoà giải với nội dung: Ông Lãnh đưa tàu BĐ 2539 về sửa chữa, để lại tàu TG 1986 cùng nhau thuê tài công tại địa phương để làm ăn khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, hai bên đã không thực hiện thoả thuận này và ngày 18/11/2000 khi ông Lãnh định đưa tàu TG 1986 về thì bị ông Tuấn, ông Bé giữ tàu yêu cầu ông Lãnh thanh toán nợ mới được đưa tàu đi. Sự việc đã không được giải quyết dứt điểm đẫn dến tàu chìm thiệt hại 100%.
Ngày 4/9/2002, ông Lãnh khởi kiện yêu cầu Toà án huyện Ba Tri buộc ông Tuấn, ông Bé liên đới bồi thường 70% giá trị còn lại của tàu (432.253.000đ x 70% = 302.773.000đ) và tiền mất thu nhập bình quân mỗi tháng 3.000.000đ tính từ tháng 11/2000.
Quyết định
- Bản án dân sự sơ thẩm số 124/2006/DS-ST ngày 7/8/2006 của Toà án huyện Ba Tri quyết định: Bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của ông Nguyễn Văn Lãnh đối với ông Trần Văn Tuấn, ông Trần Văn Bé. Buộc ông Lãnh phải trả cho ông Tuấn, ông Bé mỗi người số tiền là 33.790.000đ (Vốn 15.000.000, lãi 20.790.000đ)
- Bản án dân sự phúc thẩm số 21 ngày 18/10/2006 của Tòa án tỉnh Bến Tre quyết định: Chấp nhận 1 phần kháng cáo của ông Lãnh, sửa án sơ thẩ