Trong lịch sử Việt Nam, Trung Quốc là quốc gia có nhiều ảnh hưởng và 
vấn đề đối với Việt Nam nhất. Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là một mối quan 
hệ đặc biệt, có bề dày lịch sử lâu đời trong quan hệ ngoại giao song phương c ủa 
Việt Nam, vừa là quan hệ giữa hai nước láng giềng, vừa là quan hệ giữa hai nước 
Xã hội chủ nghĩa, và vừa là quan hệ giữa nước nhỏ với nước lớn.
Do vị thế địa chính trị, kinh tế, văn hoá của Việt Nam cùng với sự tác động, 
ảnh hưởng lẫn nhau về nhiều mặt giữa Việt Nam – Trung Quốc nên quan hệ giữa 
hai nước có một vị trí quan trọng trong hoạt động đối ngoại của mỗi nước.
Có thể nói, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc phát triển tốt đẹp không 
những đáp ứng lợi ích cơ bản và lâu dài của nhân dân hai nước, mà còn phù hợp 
với xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển của khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên trong lịch sử, không phải lúc nào m ối quan hệ giữa Việt Nam –
Trung Quốc cũng thuận lợi và tốt đẹp, không phải lúc nào cũng là “láng giềng tốt, 
bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Trên thực tế, hai nước đã từng trải qua thời 
kì đối đầu và thù địch trong giai đoạn 1979 – 1989, đặc biệt là cuộc chiến tranh 
biên giới 1979 đã đưa quan hệ hai nước lên tới đỉnh điểm của sự đối đầu; trong 
giai đoạn 1989 – 1991 hai nước đã tiến tới bình thường hoá quan hệ và đến tháng
11 – 1991 tiến trình này mới được hoàn tất với sự cố gắng nỗ lực của cả hai bên.
Vậy quá trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn
1979 – 1991 đã diễn ra như thế nào? Tại sao từ những năm 80, Việt Nam luôn 
chủ trương bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc mà tới năm 1991 mới đạt
được? Bài tiểu luận này sẽ làm rõ những vấn đề trên.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
14 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7131 | Lượt tải: 2
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quá trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn 1979 – 1991, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO VIỆT NAM 
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO 
BỘ MÔN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI 
Bài tập lớn 
QUÁ TRÌNH BÌNH THƯỜNG HOÁ 
QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC 
GIAI ĐOẠN 1979 – 1991 
 Sinh viên thực hiện: Nguyễn Cẩm Vân 
 Lớp: H-33 
Hà Nội, ngày 21 tháng 4 năm 2009 
 2
Mục lục 
 Trang 
Lời mở đầu ………………………………………………………......... 3 
 Chương I: Nội dung chính 
I. Bối cảnh quốc tế và khu vực sau thế chiến thứ II ………………. 4 
II. Tình hình Việt Nam sau năm 1975 ……………………………... 5 
III. Quá trình bình thường hoá ……………………………………… 6 
IV. Kết luận …………………………………………………………. 11 
Chương II: Đánh giá …………………………………………………. 12 
Danh mục tài liệu tham khảo ………………………………………... 13 
 3
LỜI MỞ ĐẦU 
 Trong lịch sử Việt Nam, Trung Quốc là quốc gia có nhiều ảnh hưởng và 
vấn đề đối với Việt Nam nhất. Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là một mối quan 
hệ đặc biệt, có bề dày lịch sử lâu đời trong quan hệ ngoại giao song phương của 
Việt Nam, vừa là quan hệ giữa hai nước láng giềng, vừa là quan hệ giữa hai nước 
Xã hội chủ nghĩa, và vừa là quan hệ giữa nước nhỏ với nước lớn. 
 Do vị thế địa chính trị, kinh tế, văn hoá của Việt Nam cùng với sự tác động, 
ảnh hưởng lẫn nhau về nhiều mặt giữa Việt Nam – Trung Quốc nên quan hệ giữa 
hai nước có một vị trí quan trọng trong hoạt động đối ngoại của mỗi nước. 
 Có thể nói, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc phát triển tốt đẹp không 
những đáp ứng lợi ích cơ bản và lâu dài của nhân dân hai nước, mà còn phù hợp 
với xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển của khu vực và trên thế giới. 
 Tuy nhiên trong lịch sử, không phải lúc nào mối quan hệ giữa Việt Nam – 
Trung Quốc cũng thuận lợi và tốt đẹp, không phải lúc nào cũng là “láng giềng tốt, 
bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Trên thực tế, hai nước đã từng trải qua thời 
kì đối đầu và thù địch trong giai đoạn 1979 – 1989, đặc biệt là cuộc chiến tranh 
biên giới 1979 đã đưa quan hệ hai nước lên tới đỉnh điểm của sự đối đầu; trong 
giai đoạn 1989 – 1991 hai nước đã tiến tới bình thường hoá quan hệ và đến tháng 
11 – 1991 tiến trình này mới được hoàn tất với sự cố gắng nỗ lực của cả hai bên. 
 Vậy quá trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn 
1979 – 1991 đã diễn ra như thế nào? Tại sao từ những năm 80, Việt Nam luôn 
chủ trương bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc mà tới năm 1991 mới đạt 
được? Bài tiểu luận này sẽ làm rõ những vấn đề trên. 
 4
CHƯƠNG I - NỘI DUNG CHÍNH 
 I. BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC SAU THẾ CHIẾN THỨ II 
 Sau thế chiến thứ II, Thế giới chia làm hai phe, xã hội chủ nghĩa và tư bản 
chủ nghĩa, trong đó Việt Nam và Trung Quốc cùng thuộc phe xã hội chủ nghĩa. 
Trong những năm 50 và 60, Việt Nam coi Liên Xô và Trung Quốc là hai nước 
đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, là “anh cả” và “anh hai”. Trung Quốc cũng công 
nhận phe xã hội chủ nghĩa được lãnh đạo bởi Liên Xô nhưng họ muốn được độc 
lập, không bị phụ thuộc vào “anh cả”. Vì thế mà Trung Quốc muốn Liên Xô chia 
sẻ kỹ thuật làm bom nguyên tử, nhưng Liên Xô muốn các nước xã hội chủ nghĩa 
phụ thuộc vào mình nên từ chối cho Trung Quốc công nghệ nguyên tử. Đây 
chính là nguyên nhân sâu sa của sự “bất hoà” giữa hai nước trong những năm về 
sau. Về phía Việt Nam, để phục vụ mục tiêu hoàn toàn giải phóng miền Nam, vì 
vậy Việt Nam cần có mối quan hệ tốt đẹp với cả hai cường quốc xã hội chủ 
nghĩa. Tuy nhiên, vào cuối những năm 60, đầu những năm 70, quan điểm và 
đường lối đại chiến lược của Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu rời xa nhau. Bất 
đồng sâu sắc với Liên Xô, không lôi kéo được các nước xã hội chủ nghĩa về phe 
mình, Trung Quốc đã giương cao ngọn cờ lãnh đạo các nước đang phát triển. 
Cuối những năm 60, Liên Xô đưa ra mô hình “ba dòng thác cách mạng thế giới” 
bao gồm chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân ở 
các nước tư bản chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước đang 
phát triển. Việt Nam đã nhanh chóng tiếp thu lý luận đó của Liên Xô, gắn vào đó 
hình ảnh Việt Nam là “tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á” và 
“mũi nhọn của phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới”. 
 5
 II. TÌNH HÌNH VIỆT NAM SAU NĂM 1975 
 Năm 1975, chiến tranh kết thúc, nước Việt Nam thống nhất, quan hệ Việt – 
Trung đi vào một bối cảnh mới. Sự nghiệp giải phóng miền Nam đã hoàn tất, 
Việt Nam đi vào thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả 
nước mà nội dung chính là đưa Việt Nam tiến kịp các nước phát triển về kinh tế. 
 Trong năm 1977 – 1978, tình hình quan hệ ngoại giao của Việt Nam với 
các nước bắt đầu căng thẳng: quan hệ Việt – Trung đổ vỡ, Mỹ cự tuyệt quan hệ 
ngoại giao với Việt Nam, Campuchia gây hấn biên giới tây nam Việt Nam và 
Việt Nam đưa quân vào thay đổi chính phủ của Campuchia. 
 Đầu năm 1979, Trung Quốc xâm lược Việt Nam để “ dạy cho Việt Nam 
một bài học” không thể quên. Lý do của cuộc xâm lược này là gì? Theo phía 
Trung Quốc thì những lý do sau đã đưa Trung Quốc tới quyết định đó, đó là : 
“giấc mộng đế quốc” bá quyền của Việt Nam tại Đông Nam Á; Việt Nam đã vi 
phạm lãnh thổ Trung Quốc và tiếp tục xâm nhập nước này; Việt Nam đối xử 
không tốt với Hoa kiều tại Việt Nam và Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với 
Liên Xô - nước đang mở rộng ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á. Những mục 
tiêu “chân thực” của Trung Quốc là nhằm thu hút sức ép của quân sự Việt Nam 
đang nhằm vào Campuchia và ràng buộc quân đội Việt Nam vào một mặt trận 
thứ hai. Như vậy có thể thấy, nét đặc trưng của giai đoạn này là Campuchia trở 
thành tiêu điểm của sự đối đầu giữa một bên là Trung Quốc và một bên là Việt 
Nam được Liên Xô ủng hộ. Sự đối đầu ấy trở thành một xung đột quân sự ngay 
từ tháng 5/1975 và phát triển lên thành cuộc chiến tranh biên giới Tây – Nam 
nước ta. 
 Như vậy, chỉ 4 năm sau khi giải phóng đất nước, ta lại bị xô đẩy vào cuộc 
chiến tranh thảm khốc ở Campuchia, đối đầu với Trung Quốc – đồng minh của ta 
trong 30 năm chiến đấu chống xâm lược phương tây. Chiến tranh chống Mỹ tuy 
 6
gian khổ khốc liệt, nhưng Việt Nam còn được nhân dân thế giới ủng hộ, còn 
trong cuộc chiến đấu chống diệt chủng Polpot thì Việt Nam hầu như hoàn toàn 
cô lập. 
 III. QUÁ TRÌNH BÌNH THƯỜNG HOÁ 
 Tháng 7 năm 1986, đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt 
Nam lâm bệnh qua đời. Tháng 12 năm 1986, đồng chí Nguyễn Văn Linh được 
bầu làm Tổng Bí Thư. Ông đã đề ra khẩu hiệu “ Việt Nam muốn làm bạn với tất 
cả các nước”, và ông cho rằng, đối với Việt Nam, vấn đề cấp bách hiện nay là 
phải rút quân đội ra khỏi Campuchia và cải thiện mối quan hệ với Trung Quốc. 
 Tháng 10 năm 1989, Kaysone Phomvihane, Tổng Bí Thư Đảng cách mạng 
nhân dân Lào, kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào đã thăm Trung Quốc và 
hội kiến với Đặng Tiểu Bình. Kaysone đã nêu ra mục đích của chuyến thăm 
Trung Quốc lần này là mong muốn bình thường hoá quan hệ giữa hai Đảng và 
hai nhà nước. Đồng thời Kaysone còn chuyển lời thăm hỏi của Tổng Bí Thư 
Nguyễn Văn Linh tới Đặng Tiểu Bình, nói Việt Nam đã có nhận thức mới đối 
với Trung Quốc, và còn nói Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh hy vọng sẽ có 
chuyến thăm Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình cũng nhờ Kaysone chuyển lời hỏi 
thăm tới Nguyễn Văn Linh và có nói rằng, hy vọng trước khi ông nghỉ hưu hoặc 
nghỉ hưu không lâu, vấn đề Campuchia có thể được giải quyết, quan hệ Trung - 
Việt được khôi phục bình thường. Đặng Tiểu Bình đặc biệt nhấn mạnh, Việt 
Nam phải rút hết, rút triệt để quân đội khỏi Campuchia. Kaysone đã chuyển 
những lời đó tới Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh trên đường ông về nước và có 
ghé qua Việt Nam. 
 Ngày 21/10/1989 Bộ Chính trị Việt Nam đã họp và đi đến kết luận: Trong 
lúc Trung Quốc đang còn găng với Việt Nam, Việt Nam cần có thái độ kiên trì 
và thích đáng, không cay cú, không chọc tức, nhưng cũng không tỏ ra nhún quá. 
 7
 Ngày 6/11/1989 Bộ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch đã chuyển qua 
đại sứ Trung Quốc thông điệp miệng của Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh gửi 
Đặng Tiểu Bình, ngỏ ý mong sớm có sự bình thường hoá quan hệ ngoại giao 
giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc không trả lời thông điệp của 
Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh. 
 Đến ngày 12/1/1990, phía Trung Quốc mới trả lời, vẫn đặt điều kiện cho 
việc nối lại đàm phán với ta: “Đồng chí Đặng Tiểu Bình và các nhà lãnh đạo 
khác của Trung Quốc chân thành mong muốn sớm bình thường hoá quan hệ 
Trung - Việt. Vấn đề Campuchia là nguyên nhân chủ yếu làm cho quan hệ hai 
nước xấu đi đến nay chưa được cải thiện. Việc khôi phục quan hệ hai nước chưa 
có thể cải thiện nếu bỏ qua vấn đề Campuchia…” 
 Ngày 5 tháng 6 năm 1990, dưới sự cố gắng của nhiều phía, Tổng Bí Thư 
Nguyễn Văn Linh đã hội kiến Trương Đức Duy, Đại sứ Trung Quốc tại Việt 
Nam, tại nhà khách Trung ương Đảng. Tại cuộc gặp, Tổng Bí Thư đã thừa nhận 
quan hệ hai nước trong 10 năm qua đã có nhiều cái sai, và Tổng Bí Thư cũng thể 
hiện mong muốn sang gặp lãnh đạo Trung Quốc để “bàn vấn đề bảo vệ chủ 
nghĩa xã hội: “Chúng tôi muốn cùng những người cộng sản chân chính bàn về 
vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội… Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lãnh đạo 
cấp cao Trung Quốc để khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một 
tiếng là tôi đi ngay…”. Về vấn đề Campuchia, Tổng Bí Thư gợi ý dùng “giải 
pháp đỏ” để giải quyết. 
 Sau khi hội kiến, Trương Đức Duy đã báo cáo tỉ mỉ nội dung cuộc nói 
chuyện về Trung Quốc, nhanh chóng nhận được trả lời, vẫn là yêu cầu Việt Nam 
phải nhanh chóng rút quân khỏi Campuchia. 
 Tháng 8 năm 1990, tình hình quốc tế và vấn đề Campuchia tiếp tục diễn 
biến phức tạp. Ngày 12/8/1990, Bộ Chính trị họp về đề án Campuchia của Bộ 
 8
Ngoại Giao, sau khi thảo luận, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh đã kết luận: “… 
với Trung Quốc, ta nên nói là 2 nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Trung Quốc 
nên hợp tác giải quyết vấn đề Campuchia để có một nước Campuchia hữu nghị 
với các nước láng giềng, trước hết là Việt Nam, Trung Quốc, Lào. Ta không nói 
Việt Nam và Trung Quốc là 2 nước xã hội chủ nghĩa cần đoàn kết chống đế quốc, 
bảo vệ chủ nghĩa xã hội.” 
 Ngày 29/8/1990, đại sứ Trương Đức Duy xin gặp Tổng Bí Thư Nguyễn 
Văn Linh và Thủ Tướng Đỗ Mười chuyển thông điệp của Tổng Bí Thư Giang 
Trạch Dân và Thủ Tướng Lý Bằng mời Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh, thủ 
tướng Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ của tỉnh Tứ 
Xuyên, Trung Quốc, ngày 3/9/1990 để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và 
vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước. Trung Quốc còn lấy cớ ở Bắc Kinh 
đang chuẩn bị tổ chức ASIAD (Á Vận Hội) nên không gặp cấp cao Việt Nam ở 
thủ phủ Bắc Kinh được vì khó giữ được bí mật, mà phải gặp ở Thành Đô. 
 Ngày 30/8/1990, Bộ chính trị họp bàn về việc gặp lãnh đạo Trung Quốc. 
Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh nêu ý kiến sẽ bàn hợp tác với Trung Quốc để 
bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc và hợp tác giữa Phnôm-pênh và Khơ-me 
đỏ để giải quyết vấn đề Campuchia. 
 Ngày 2/9/1990, ba đồng chí lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đến Thành Đô 
đúng hẹn. Tháp tùng có đồng chí Hồng Hà, chánh văn phòng Trung ương, đồng 
chí Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại, và đồng chí Đinh Nho Liêm, thứ 
trưởng ngoại giao. 
 Sau 2 ngày nói chuyện (3 – 4/9/1990), kết quả được ghi lại trong một văn 
bản gọi là “Biên bản tóm tắt” gồm 8 điểm, trong đó có tới 7 điểm nói về vấn đề 
Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện quan hệ giữa hai nước mà thực chất là 
chỉ nhắc lại lập trường cũ của Trung Quốc gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia 
 9
với bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong 7 điểm thì có 
2 điểm về giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia; và rút hết quân 
Việt Nam ở Campuchia có kiểm chứng, còn lại 5 điểm thì hoàn toàn là đáp ứng 
yêu cầu của Trung Quốc. Về sáng kiến “giải pháp đỏ” cho vấn đề Campuchia, 
phía Trung Quốc đã bác bỏ, họ cho rằng ở Campuchia không chỉ có hai Đảng 
cộng sản mà còn có các thế lực khác là lực lượng của Sihanouk và lực lượng của 
Son San, do đó mà không thể đoàn kết Campuchia, và cần phải để hai bên kia 
phát huy tác dụng ở Campuchia. 
 Sau cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô, yêu sách chính của Trung Quốc đối với 
ta trong vấn đề Campuchia tập trung chủ yếu vào việc đòi ta thực hiện thoả thuận 
Thành Đô, cụ thể là tác động với Phnôm-pênh nhận Sihanouk làm chủ tịch Hội 
đồng dân tộc tối cao. 
 Từ tháng 3/1991, tại kì họp thứ 4 Quốc hội Trung Quốc khoá VII, Lý Bằng 
tuyên bố “Quan hệ Việt – Trung đã tan băng” và có một số điều chỉnh mềm dẻo 
hơn trong vấn đề Campuchia. 
 Từ ngày 17 đến ngày 27/6/1991, Đảng Cộng Sản Việt Nam họp Đại hội lần 
thứ VII, đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí Thư. 
 Ngày 9/7/1991, ngay sau khi được bầu làm Tổng Bí Thư, đồng chí Đỗ 
Mười đã gặp đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy tỏ ý muốn cử đặc phái viên đi 
Bắc Kinh để thông báo về Đại hội VII và trao đổi về quan hệ giữa hai nước. 
Trước đó, vào ngày 11/6/1991, Bộ Ngoại Giao Việt Nam cũng đã gặp đại sứ 
Trung Quốc đề nghị mở lại đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao giữa hai nước. 
Ngày 17/7/1991, Trung Quốc đồng ý cuộc gặp cấp thứ trưởng từ ngày 5/8 đến 
10/8. Ngày 19/7, Trung Quốc đồng ý việc Việt Nam cử đặc phái viên gặp lãnh 
đạo Trung Quốc, nhưng lại xếp trước cuộc gặp thứ trưởng ngoại giao. Phía 
 10 
Trung Quốc đã đề nghị thay “đặc phái viên” thành “đoàn Đại diện đặc biệt của 
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam” . 
 Ngày 28/7/1991, đoàn đã đến Bắc Kinh, và trong những ngày sau đó đã 
thông báo khá chi tiết về Đại hội VII. Phía Trung Quốc tỏ ý rất hài lòng, chủ tịch 
Giang Trạch Dân đã nói “Từ đáy lòng mình, tôi hết sức hoan nghênh kết quả 
Đại hội VII của các đồng chí Việt Nam”. 
 Ngày 10/8/1991, sau khi cuộc đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao kết thúc 
với kết quả đúng như ý muốn của Trung Quốc, vào đúng ngày Quốc hội Việt 
Nam thông qua việc bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Mạnh Cầm thay đồng chí 
Nguyễn Cơ Thạch giữ chức bộ trưởng ngoại giao. Ngoại trưởng Trung Quốc ngỏ 
lời mời ban ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm ngày 10/9/1991 thăm Trung Quốc 
để chuẩn bị cho cuộc gặp cấp cao Trung - Việt ở Bắc Kinh. 
 Nhìn chung, từ sau Đại hội VII, tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt 
Nam – Trung Quốc đã có nhiều tiến triển tốt đẹp. Ngày 5 đến ngày 10/11/1991, 
sau khi Hiệp định về Campuchia được ký kết tại Paris, Tổng Bí Thư Đỗ Mười và 
Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức Cộng hoà nhân dân Trung Hoa để hoàn 
thành việc bình thường hoá mối quan hệ giữa hai nước. Quan hệ Việt – Trung 
tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không 
xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Quan hệ 
Việt – Trung không phải là quan hệ đồng minh, không trở lại quan hệ những 
năm 50 – 60 nữa mà đã xác định tinh thần “thân nhưng không gần, sơ nhưng 
không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau”. 
 11 
IV. KẾT LUẬN 
 Từ năm 1980 đến năm 1988, Việt Nam đã gần hai mươi lần gửi thư hoặc 
công hàm cho Trung Quốc đề nghị nối lại đàm phán về vấn đề bình thường hoá 
quan hệ hai nước nhưng đều bị Trung Quốc bác bỏ với lý do này hoặc lý do 
khác,mà chủ yếu là về vấn đề Campuchia. Phía Trung Quốc luôn luôn nâng cao 
điều kiện nối lại đàm phán với Việt Nam : 
- Từ năm 1980 đến tháng 9 năm 1985, Trung Quốc đòi Việt Nam rút hết 
quân khỏi Campuchia thì Trung Quốc sẵn sàng nối lại đàm phán. 
- Từ tháng 9 năm 1985 đến cuối năm 1985 khi Việt Nam tuyên bố sẽ rút 
hết quân khỏi Campuchia trong năm 1990 thì Trung Quốc lại không nói 
“sẵn sàng đàm phán” nữa mà chỉ nói sẽ nói chuyện qua đại sứ hai bên. 
- Từ cuối năm 1985 đến tháng 3 năm 1986, Trung Quốc vẫn đòi Việt 
Nam cam kết rút quân nhưng có thêm điều kiện nữa là nếu Việt Nam 
không loại trừ lực lượng Polpot thì Trung Quốc sẽ đàm phán ngay với 
Việt Nam. 
- Từ tháng 3 năm 1986, Trung Quốc đòi Việt Nam rút quân hết nhưng 
yêu cầu Việt Nam phải nói chuyện với “Chính phủ liên hiệp Campuchia 
dân chủ” và với Sihanouk vì Trung Quốc không thể thay mặt 
Campuchia bàn với Việt Nam về vấn đề Campuchia được. Còn Trung 
Quốc chỉ đàm phán với Việt Nam sau khi vấn đề Campuchia được giải 
quyết theo cách của Trung Quốc. 
 Trong khi thoái thác đàm phán với ta, Trung Quốc xúc tiến đàm phán bình 
thường hoá quan hệ với Liên Xô và với Lào để cô lập và ép Việt Nam. Chỉ từ 
sau cuộc gặp Thành Đô và Đại hội VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì quan hệ 
hai nước mới tiến triển và đi đến bình thường hoá quan hệ vào tháng 11/1991. 
 12 
 Đây là lý do tại sao từ những năm 80, Việt Nam luôn chủ trương bình 
thường hoá quan hệ với Trung Quốc nhưng đến năm 1991 thì mới đạt được mục 
đích đó. 
CHƯƠNG II – ĐÁNH GIÁ 
 Nhìn lại, cuộc gặp Thành Đô hoàn toàn không phải là thành tựu đối ngoại 
của ta. Thực tế, chúng ta đã phải nhún nhường trước Trung Quốc. Trung Quốc 
nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề Campuchia và vấn đề bình 
thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn về vấn đề Campuchia, còn vấn đề 
bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn nhắc lại lập trường cũ là giải 
quyết xong vấn đề Campuchia thì mới nói đến việc bình thường hoá quan hệ hai 
nước.Tuy nhiên, mặc dù không phải là một thành tựu đối ngoại, nhưng cuộc gặp 
Thành Đô đã góp phần đưa tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt Trung tiến 
thêm một bước. Sau bao nhiêu nỗ lực muốn đàm phán và nối lại hoà bình của ta 
nhưng đều bị Trung Quốc từ chối, thì cuộc gặp này là cơ hội cho ta thể hiện 
thiện chí,mong muốn hoà bình hữu nghị của mình, với phương châm “ láng 
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diên, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. 
 Có thể nói, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc mang lại cho Việt 
Nam những cơ hội thúc đẩy các mối quan hệ về nhiều mặt không chỉ với Trung 
Quốc mà với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc bình thường hoá và 
phát triển quan hê hữu nghị Việt – Trung là hoàn toàn phù hợp với chính sách 
đối ngoại của nước ta trong thời kỳ đổi mới “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác 
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và 
phát triển” (Đại hội IX). Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc phát triển tốt đẹp, vừa 
đáp ứng được lợi ích cơ bản, lâu dài của nhân dân hai nước, lại phù hợp với xu 
thế phát triển chung của thời đại, của khu vực và của thế giới. 
 13 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trần Quang Cơ, Hồi ức và suy nghĩ, Chương IV, IX, XIII, XIV. 
2. Lịch sử quan hệ Việt – Trung nhìn từ góc độ đại chiến lược, Vũ Hồng 
Lâm - Tạp chí nghiên cứu và thảo luận - Thời đại mới, số 2 tháng 
7/2004. 
3. Nhìn nhận lại cuộc chiến năm 1979 của Trung Quốc với Việt Nam, 
Trương Tiểu Minh. 
4. Khoá luận tốt nghiệp: “Quan hệ chính trị Việt Nam – Trung Quốc 1986 
-1999: từ đối đầu đến khuôn khổ 16 chữ”, Trần Thị Minh Phương C31- 
HVQHQT. 
5. Vấn đề đổi mới tư duy trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam, Vũ 
Dương Huân, Chính sách đối ngoại Việt Nam tập II, HVQHQT. 
6. Website : http:// www.tapchicongsan.org.vn 
 14