Đề tài Quan điểm toàn diện với việc nghiên cứu nền kinh tế Việt Nam hiện nay

Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, mức sống nhân dân thấp. Đứng trước bối cảnh đó con đường đúng đắn duy nhất để đổi mới đất nước là đổi mới kinh tế. Từ 1986 , trên cơ sở quan điểm toàn diện nhận thức rõ về thực trạng đất nước cùng với những thành tựu trong những năm đầu đổi mới đến năm 1991 tại Đại hội lần VII, Đảng ta đã đi tới quyết định : Xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Đường lối đó được thực hiện trên mười năm đổi mới đã đem lại những thành tưu đáng khích lệ chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng phía sau những thành tựu đó còn không ít những khó khăn nổi cộm. Do đó cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó. Đây là việc làm thiết thực và rất cần thiết đối với vận mệnh đất nước vì vậy em đã quyết định chọn đề tài “Quan điểm toàn diện với việc nghiên cứu nền kinh tế Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu.

doc19 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1971 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quan điểm toàn diện với việc nghiên cứu nền kinh tế Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, mức sống nhân dân thấp. Đứng trước bối cảnh đó con đường đúng đắn duy nhất để đổi mới đất nước là đổi mới kinh tế. Từ 1986 , trên cơ sở quan điểm toàn diện nhận thức rõ về thực trạng đất nước cùng với những thành tựu trong những năm đầu đổi mới đến năm 1991 tại Đại hội lần VII, Đảng ta đã đi tới quyết định : Xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Đường lối đó được thực hiện trên mười năm đổi mới đã đem lại những thành tưu đáng khích lệ chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng phía sau những thành tựu đó còn không ít những khó khăn nổi cộm. Do đó cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó. Đây là việc làm thiết thực và rất cần thiết đối với vận mệnh đất nước vì vậy em đã quyết định chọn đề tài “Quan điểm toàn diện với việc nghiên cứu nền kinh tế Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu. Phần I Lý LUận CHUNG I- Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói đến quan điểm toàn diện với vấn đề trên trước hết ta phải hiểu được nền kinh tế thị trường là gì ? xã hội chủ nghĩa là gì ? thế nào là thành phần kinh tế và tại sao phải phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa 1 Khái niệm về xã hội chủ nghĩa (XHCN). Vào tháng 6-1996 tại đại hội Đảng lần VIII đã xác định: Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chủ yếu có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, mọi người có quyền làm chủ bản thân mình, là xã hội mà người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc, tự do trong khuôn khổ pháp luật, có điều kiện để phát triển toàn diện trên cơ sở đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ, có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc đưa đất nước đi lên XHCN. Định hướng XHCN ở nước ta ngày càng được giữ vững và không ngừng phát triển đặc biệt là định hướng về chính trị, xã hội và kinh tế. 2 Thế nào là nền kinh tế thị trường ? Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế phát triển tuân theo các quy luật thị trường. Trong kiểu tổ chức mà toàn bộ quá trình sản xuất - phân phối, trao đổi - tiêu dùng, sản xuất ra cái gì, cho ai đều dựa trên nhu cầu thị trường và do thị trường quyết định. Nền kinh tế là một chính thể thống nhất vận động và phát triển một cách tuần tự. Ngay từ đầu nền kinh tế mới không phải đã có thể hoàn chỉnh với những đặc điểm, đặc trưng của nó mà phải mang trong mình những tàn dư của nền kinh tế cũ trong khi đó nền kinh tế cũ là nền kinh tế nhiều thành phần. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần (KT HH NTP) thể hiện và bảo đảm sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ thấp, không đều của lực lượng sản xuất. Đồng thời khơi dậy tiềm năng của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Việc chuyển cơ chế quản lý hành chính từ tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường làm cho quản lý từ bảo thủ, trì trệ thành quản lý năng động và hiệu quả, chuyển chế độ sở hữu từ một hình thức (quốc doanh và tập thể) sang đa chủ thể sở hữu về tư liệu sản xuất. Đại hội VII đã khẳng định: Các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ kinh tế của lực lượng sản xuất hiện nay. Đó là : kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản Nhà nước và kinh tế tư nhân tư bản. Nền kinh tế thị trường vớinhiều thành phần kinh ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế ở nước ta thoát khỏi tình trạng thấp kém, và ngày càng phát triển. Nền KT HH NTP vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong quản lí kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò định hướng còn kém hiệu quả, chưa làm tốt vai trò chủ đạo. Kinh tế hợp tác chậm đổi mới, số tổ chức hợp tác trước kia chỉ còn tồn tại 10%. Nhiều hình thức hợp tác mới ra đời nhưng chưa được tổng kết, đánh giá, Nhà nước lại chưa có sự giúp đỡ nên phương hướng hoạt động còn nhiều vướng mắc lúng túng. Để kinh tế hợp tác hoạt động đúng hướng Nhà nước phải sớm hoàn thiện luật kinh tế hợp tác để tạo hành lang pháp lý cho quá trình hoạt động của thành phần kinh tế này. Do việc quản lí các doanh nghiệp còn rất nhiều sơ hở. Sự liên doanh của Nhà nước với tư bản tư nhân rất ít. Việc quản lí các liên doanh có vốn đầu tư của nước ngoài còn nhiều sơ hở nghiêm trọng dẫn đến các hiện tượng tiêu cực như : Giao công nghệ lạc hậu, khai man giá thiết bị máy móc, trốn lậu thuế trở thành phổ biến. Mặt khác những thành phần kinh tế tiêu biểu cho lực lượng quyết định định hướng xã hội chủ nghĩa còn non kém, chúng chưa phát huy được tính ưu việt so với nền sản xuất nhỏ. Sự non kém đó cùng với năng lực quản lí điều hành yếu kém là nguy cơ dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là một tất yếu khách quan để hoàn thành công cuộc xây dựng CNXH 3. Việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đi đến mục tiêu không còn áp bức, bóc lột, thực hiện được công bằng xã hội và xã hội có mức sống cao. Về mặt kinh tế công bằng không có nghĩa là bình quân. Đó là một quá trình tiệm tiến dần dần thông qua các biện pháp kinh tế - xã hội tổng hợp. Điểm khác nhau cơ bản của cơ chế kinh tế của XHCN so với cơ chế kinh tế tư bản chủ nghĩa là khả năng từng bưóc rút ngắn khoảng cách giàu - nghèo trong khi chủ nghĩa tư bản chỉ có thể dẫn đến phân cực. Trong thời kỳ quá độ chúng ta thừa nhận còn có bóc lột, đây là hiện tượng không hợp lý cần xoá bỏ. Thực hiện mục tiêu đó là một nhiệm vụ lâu dài của nhiều thế hệ, phải giải quyết bằng nhiều biện pháp không làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của công dân. Bước đầu chìa khoá để giải quyết nhiệm vụ đó là xã hội hoá XHCN trong thực tế nền sản xuất xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất xây dựng quan hệ sản xuất mới. Phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Vừa hình thành được cơ cấu kinh tế đặc trưng cho xã hội mới. Quá trình chuyển hướng và đổi mới nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc, một vấn đề chiến lược quan trọng nhất, cơ bản nhất của tư duy kinh tế mới của Đảng ta. Phầnii Nền kinh tế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. I. Tính tất yếu khách quan phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường Để xác lập cơ sở kinh tế của chế độ mới, Nhà nước ta xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế mới. Sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử, điều kiện chủ quan, khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đồng đều về lực lượng sản xuất giữa các ngành, các doanh nghiệp chính sự phát triển không đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trước hết hình thức, qui mô và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó nghĩa là tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các cơ sở kinh tế khác nhau. Sự tồn tại các thành phần kinh tế ở nước ta có ý nghĩa lý luận và thực tế to lớn. Hơn nữa các thành phần kinh tế cũ còn có khả năng phát triển, còn có vai trò đối với sản xuất và đời sống. Mỗi thành phần kinh tế đều có những thế mạnh riêng rất cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH. Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế cần phải thu hút các nguồn lực từ bên ngoài Nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể liên doanh hợp tác với tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài làm hình thành kinh tế tư bản Nhà nước. Trên đây là nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại và phát triển nhiều thành phần kinh tế ở Việt Nam còn có cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá là do : phần công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hh chẳng những không mất đi trái lại ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề cổ truyền có tiềm năng lớn trước đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai mọt nay được khôi phục và phát triển. Sản phẩm đưa ra trên thị trường phong phú, đa dạng chất lượng cao, mẫu mã đẹp hơn. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia, trở thành phân công lao động trên phạm vi thế giới. Nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế nhưng trình độ xã hội hoá giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế vẫn chưa đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế, phân phối và trao đổi sản phẩm tất yếu phải thông qua hình thái hàng hoá - tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế đảm bảo lợi lích giữa các tổ chức trong các thành phần với người lao động và giữa các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần với nhau. II. Vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế đều là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân Mặc dù các thành phần kinh tế nàycó sự khác nhau về hình thức sở hữu, về cách thức thu nhập. Tuy nhiên chúng đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế và xã hội ta vàchúng có vị trí, vai trò nhất định trong một hệ thống kinh tế thống nhất có sự quản lý của Nhà nước. 1 Kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước như đất đai, tài nguyên, kết cấu hạ tầng, các nguồn dự trữ, ngân hàng, kể cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định rằng: Kinh tế Nhà nước cần tập trung vào những ngành, những lĩnh vực chủ yếu như : Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất thương mại. Như vậy, vị trí của kinh tế Nhà nước là rất quan trọng và to lớn. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với các thành phần kinh tế khác, thể hiện trên các mặt sau: Kinh tế Nhà nước tạo lực lượng về kinh tế để Nhà nước có thể thực hiện hữu hiệu chức năng định hướng, đòn bẩy hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có hiệu quả, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, nó còn cung ứng những hàng hoá, dịch vụ cần thiết trong một số lĩnh vực quan trọng như : Giao thông, thông tin liên lạc, quốc phòng, an ninh,... Đồng thời kinh tế Nhà nước đảm bảo vai trò can thiệp và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện một số chính sách xã hội. Mấy năm qua khu vực kinh tế Nhà nước có chuyển biến tích cực biểu hiện ở: Tỷ trọng tổng sản phẩm trong nước tăng từ 36% năm 1991 lên đến 43,6% năm 1994. Hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên, số doanh nghiệp thua lỗ giảm bớt. Tuy nhiên, nó cũng chưa phát huy đầy đủ tính ưu việt và sự chủ đạo đối với nền kinh tế quốc dân, những tiến bộ đạt được chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tương xứng với năng lực sẵn có. Hiệu quả kinh doanh còn thấp, một bộ phận đáng kể còn thua lỗ hoặc không có lãi. Do đó vấn đề cấp thiết đặt ra cho khu vực kinh tế Nhà nước là tạo ra động lực, lợi ích trực tiếp cho người lao động để họ thực hiện quyền làm chủ, kiểm tra, kiểm soát quá trình sản xuất kinh doanh. Việc đổi mới kinh tế Nhà nước phải hết sức coi trọng đầu tư và thường xuyên tổng kết để rút ra các bài học kinh nghiệm, bổ xung những tri thức “cập nhật” nhằm thực hiện tốt vai trò chủ đạo và mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa của thành phần kinh tế này. 2. Thành phần kinh tế hợp tác. Hiện nay một thực tế đặt ra là nếu không củng cố và phát triển kinh tế hợp tác xã để nó cùng với kinh tế Nhà nước tạo thành nền tảng của xã hội thì mục tiêu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là rất khó khăn. Vì vậy, Đại hội toàn quốc lần VIII đã nêu lên nhiệm vụ phải phát triển kinh tế hợp tác xã với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao. Thực tiễn cho thấy: Hợp tác xã phải được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, hưởng lợi quá theo cổ phần và kết quả lao động. Mỗi xã viên có quyền định đoạt ngang nhau đối với công việc chung. Kinh tế hợp tác có nhiều dạng, có những hợp tác xã trở thành lĩnh vực hoạt động chính của các thành viên, có những hợp tác xã chỉ nhằm đáp ứng chung về một hay một số dịch vụ trong quá trình sản xuất. Thành viên tham gia chỉ đóng một phần vốn và lao động, hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế tự chủ. Hợp tác xã có thể là kết quả liên kết theo chiều dọc, chiều ngang hoặc hỗn hợp không bị giới hạn bởi địa giới và lĩnh vực kinh doanh. Hợp tác xã có thể huy động vốn cả trong lẫn ngoài. Để đảm đương vai trò và nhiệm vụ mà nền kinh tế giao phó, thành phần kinh tế tập thể phải có sự đổi mới căn bản và đồng bộ về quan hệ sở hữu, quản lí và quan hệ phân phối, áp dụng tiến bộ và công nghệ khoa học mới vào sản xuất, hoạt động phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện tự chịu trách nhiệm với tư cách pháp nhân lời ăn lỗ chịu. Sự tồn tại, phát triển của kinh tế hợp tác là một tất yếu kinh tế phù hợp với con đường tiến hoá tự nhiên của nền kinh tế nước ta. Vị trí, vai trò của thành phần kinh tế này đã được khẳng định và ngày càng phát huy tác dụng đặc biệt là trong kinh tế hợp tác xã nông nghiệp. 3. Kinh tế tư bản Nhà nước. Kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta đa số là những doanh nghiệp nhỏ và vừa tập trung trong ngành dịch vụ (64%). Tổng giá trị sản phẩm khu vực này tạo ra là 9% GDP. Nó đã đóng vai trò không kém phần quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay, là cầu nối giữa sản xuất nhỏ và sản xuất lớn góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Lênin đã chỉ rõ “Trong một nước tiểu nông phải đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước tiến lên xã hội chủ nghĩa”. Vận dụng tư tưởng đó Đảng ta đã chỉ rõ là phải áp dụng một cách rộng rãi các hình thức tư bản Nhà nước để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thu hút đầu tư nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển thành phần kinh tế này. Đó là việc thu hút vốn, công nghệ và kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới, khu vực nhằm từng bước gớp phần cấu trúc lại nền kinh tế, tạo việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách. Vì vậy Việt Nam cần tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn bằng cách đơn giản hoá thủ tục đầu tư, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ đủ khả năng đảm đương được công việc, nâng cao hệ thống cơ sở hạ tầng và xây dựng hệ thống pháp luật ổn định. Tạo lòng tin và giữ vững chữ tín với các đầu tư nước ngoài. 4 Kinh tế cá thể, tiểu chủ. Sở hữu của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản xuất kinh doanh phân tán, mục đích kinh doanh chủ yếu nuôi sống mình. Thế mạnh của thành phần kinh tế này là phát huy nhanh, có hiệu quả tiền vốn, sức lao động, tay nghề. Vì vậy kinh tế cá thể tiểu chủ có vị trí, vai trò quan trọng và lâu dài đối với sự phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đảng và Nhà nước chủ trương giúp đỡ thành phần kinh tế tiểu thủ về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Song nó còn có những hạn chế không phù hợp với chủ nghĩa xã hội. Do đó cần hướng dẫn nó đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm “vệ tinh” cho các doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã. Đó là cách tốt đất để nó hoà nhập với các thành phần kinh tế khác và đóng góp nhiều hơn cho công cuộc đổi mới kinh tế, phát triển đất nước. 5 Thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các hình thức như : Doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn. Từ năm 1991, sau khi có luật Doanh nghiệp tư nhân ở nước ta, kinh tế tư bản Nhà nước phát triển khá mạnh và sẽ trở thành một lực lượng đáng kể trong công cuộc xây dựng đất nước. Hiện nay có 12.109 Doanh nghiệp tư nhân với số vốn đăng ký 2.234 tỷ đồng, Công ty trách nhiệm hữu hạn có 5583 Công ty với tổng số vốn 3 tỷ đồng. Nền kinh tế nước ta phát triển có năng động với tốc độ cao hay không phụ thuộc không nhỏ vào sự phát triển của khu vực kinh tế này. Mặt khác việc tư nhân hoá các Doanh nghiệp Nhà nước chỉ có thể mở rộng và có hiệu quả dựa trên cơ sở một khu vực kinh tế tư nhân được phát triển đủ lớn làm tiền đề. Vì vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay sự phát triển mạnh mẽ và năng động của kinh tế tư bản tư nhân có ý nghĩa rất lớn và đòi hỏi phải được sự quan tâm đúng mức của Đảng- Nhà nước. Nhà nước cần khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư bỏ vốn ra kinh doanh. Những nhà đầu tư tư nhân phải được thực sự bình đẳng trong kinh doanh trước pháp luật, được tôn trọng trong xã hội. Chính sách của Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân phát triển trong những ngành và lĩnh vực pháp luật cho phép. Nhà nước góp phần vốn đầu tư cùng tư nhân trên cơ sở thoả thuận nhằm tạo thế Kinh doanh tạo lực phát triển xây dựng tình đoàn kết, hợp tác giữa chủ và thợ phát triển Kinh doanh có hiệu quả. Tất cả các thành phần kinh tế trên tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển mạnh mẽ. III Mối liên hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Nền kinh tế hàng hóa quá độ trong đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những kiểu sản xuất hàng hoá không cùng bản chất vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau. Tính thống nhất của các thành phần kinh tế thể hiện : Các thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động không biệt lập nhau mà gắn bó đan xen thâm nhập lẫn nhau thông qua các mối quan hệ kinh tế Mỗi thành phần kinh tế có vai trò, chức năng của nó trong đời sống kinh tế xã hội và đều chịu sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Sự thống nhất của các thành phần kinh tế còn vì yếu tố điều tiết thống nhất của hệ thống các quy luật kinh tế đang tác động trong thời kỳ quá độ và thị trường thống nhất. Tất cả các thành phần kinh tế đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta. Vì vậy các thành phần này đều phát huy mọi tiềm lực hiện có để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Các thành phần kinh tế đều khác nhau về nhiều mặt cho nên sự thống nhất này bao hàm những mặt khác biệt nhau và đối lập nhau. Chúng tồn tại trong mẫu thuẫn. Mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu, giữa tư nhân với tập thể, giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và xu hướng xã hội chủ nghĩa. Sở dĩ có sự mâu thuẫn là do đặc điểm sở hữu của các thành phần kinh tế là khác nhau nên lợi ích kinh tế giữa các thành phần là khác nhau, trái ngược nhau nên mâu thuẫn nhau. Ngay trong mỗi thành phần kinh tế các Doanh nghiệp cũng mâu thuẫn lẫn nhau vì chúng đều là các chủ thể tham gia cạnh tranh trên thị trường. Mâu thuẫn là động lực của mọi sự vận động và phát triển trong hệ thống thống nhất của nền kinh tế qúa độ trong đó chứa đựng những sự đối lập, một mặt bài trừ, như định lẫn nhau, cạnh tranh với nhau. Mặt khác chúng thống nhất với nhau, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hoá để vươn lên tự khẳng định mình và phát triển theo quỹ đạo chung chịu sự quản lý của Nhà nước. Tuỳ vào khả năng và trình độ xã hội hoá của từng thành phần và sự hợp tác giữa chúng mà giải phóng mọi năng lực sản xuất Kinh doanh, mở rộng thị trường tạo công ăn việc làm nâng cao đời sống người dân. IV.Những thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường 1 Những thành tựu đạt được. Qua hơn mười năm đổi mới nền kinh tế nước ta bước đầu đi dần vào thế ổn định và tăng trưởng đã đạt được những thành tựu đáng kể: Tổng sản phẩm xã hội
Luận văn liên quan