Đề tài Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa

Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự (sau đây gọi tắt là BLTTHS) năm 2003, người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân. - Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp. - Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, cáo là cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. - Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, luật sư, đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định chung cho người bào chữa. Bị can, bị cáo có thể tự bào chữa cho mình nếu họ có khả năng làm việc đó như có kiến thức, có sự hiểu biết nhất định về pháp luật, biết sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để bác bỏ sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, không phải bất kỳ bị can, bị cáo nào cũng có khả năng thực hiện quyền bào chữa bằng cách này. Vì vậy, để đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội, pháp luật tố tụng hình sự cho phép bị can, bị cáo có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc đại diện hợp pháp của họ thực hiện quyền bào chữa. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Người bào chữa khi tham gia tố tụng để bào bị cáo có những quyền và phải thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật tố tụng hình sự đã quy định đối với người bào chữa.

doc15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1995 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Khái quát về người bào chữa Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự (sau đây gọi tắt là BLTTHS) năm 2003, người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân. Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp. Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, cáo là cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, luật sư, đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định chung cho người bào chữa. Bị can, bị cáo có thể tự bào chữa cho mình nếu họ có khả năng làm việc đó như có kiến thức, có sự hiểu biết nhất định về pháp luật, biết sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để bác bỏ sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, không phải bất kỳ bị can, bị cáo nào cũng có khả năng thực hiện quyền bào chữa bằng cách này. Vì vậy, để đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội, pháp luật tố tụng hình sự cho phép bị can, bị cáo có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc đại diện hợp pháp của họ thực hiện quyền bào chữa. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Người bào chữa khi tham gia tố tụng để bào bị cáo có những quyền và phải thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật tố tụng hình sự đã quy định đối với người bào chữa. II. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành Có thể nói BLTTHS năm 2003 đã bổ sung khá đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa khi tham gia tố tụng. Đặc biệt là trong BLTTHS năm 2003 đã có nhiều quy định bổ sung về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa so với BLTTHS năm 1988 phù hợp hơn với điều kiện giải quyết các vụ án hình sự hiện nay. 1. Về quyền của người bào chữa Các quyền của người bào chữa được quy định tại Khoản 2 Điều 58 BLTTHS. Theo đó, người bào chữa có các quyền sau đây: - Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa. Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ là một quy định bổ sung của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988. Đây là quy định nhằm đảm bảo cho người bào chữa thực hiện việc bào chữa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ. Theo quy định của BLTTHS năm 2003, người bị tạm giữ có quyền “tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Quy định người bào chữa có quyền “có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ” là một trong những đảm bảo thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Khi có mặt trong cuộc lấy lời khai người bị tạm giữ, nếu điều tra viên đồng ý thì người bào chữa được hỏi người bị tạm giữ. Đây là một trong những biện pháp để người bào chữa thực hiện nhiệm vụ của mình. Với quyền được có mặt trong các hoạt động điều tra giúp người bào chữa theo dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ, điều này có ý nghĩa rất lớn chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng của họ sau này tại phiên tòa. Người bào chữa còn có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can khi điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa. Quyền được xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng có liên quan đến người mà mình bào chữa là một quyền được bổ sung của người bào chữa so với quy định của BLTTHS năm 1988. BLTTHS năm 2003 bổ sung quyền này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình đồng thời đảm bảo tính khách quan, chính xác của các hoạt động điều tra của cơ quan điều tra. Nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền. - Người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Đây là một quy định bổ sung của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988. Mặc dù tại khoản 2 Điều 36 BLTTHS năm 1988 đã quy định người bào chữa có quyền “có mặt khi hỏi cung bị can” nhưng không có quy định để đảm bảo cho người bào chữa thực hiện quyền này nên trong thực tế người bào chữa gặp không ít trở ngại từ phía cơ quan điều tra như do không được báo trước nên người bào chữa không biết thời gian, địa điểm hỏi cung để thu xếp công việc tham dự cuộc hỏi cung. Khi người bào chữa có thời gian để tham dự cuộc hỏi cung thì lại không đúng lịch hỏi cung, điều tra viên viện đủ lý do để hoãn cuộc hỏi cung đến khi người bào chữa không có mặt ở đó mới tiến hành hỏi cung. Người bào chữa không thể lúc nào cũng trực ở cơ quan điều tra để tham dự cuộc hỏi cung được. Khắc phục tình trạng đó, điểm b Khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định cho người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung để người bào chữa thu xếp công việc có mặt khi điều tra viên hỏi cung bị can. Theo tinh thần đó, nếu điều tra viên hoãn cuộc hỏi cung hoặc thay đổi địa điểm hỏi cung thì cũng phải báo cho người bào chữa biết. - Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS năm 2003. Theo đó, nếu có căn cứ theo luật định và xét thấy việc tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa thì người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi những người này. - Người bào chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Đây cũng là một quyền được BLTTHS năm 2003 bổ sung so với BLTTHS năm 1988. Người bào chữa có quyền độc lập thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án để chuẩn bị luận cứ cho bài bào chữa của mình. Đây không phải là hoạt động tố tụng mà đơn thuần là biện pháp để người bào chữa thực hiện nhiệm vụ của mình. Người bào chữa có thể thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến bào chữa thông qua việc tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc thu thập từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. - Người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 36 BLTTHS năm 1988 thì quyền này được gọi là quyền được “đưa ra chứng cứ và những yêu cầu” của người bào chữa; BLTTHS năm 2003 đã sửa đổi thành quyền được “đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu” (điểm đ Khoản 2 Điều 58). Quy định này của BLTTHS 2003 là chính xác hơn so với BLTTHS năm 1988 bởi lẽ người bào chữa không có quyền thu thập chứng cứ mà quyền này thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, người bào chữa chỉ được thu thập các tài liệu, đồ vật và đưa ra cho các cơ quan tiến hành tố tụng để chứng minh sự vô tội của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc chứng minh các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của những người này. Việc những tài liệu, đồ vật đó có thể trở thành chứng cứ trong vụ án hay không là do những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền quyết định trên cơ sở xem xét các thuộc tính của chứng cứ. Ở thời điểm người bào chữa đưa ra những đồ vật, tài liệu, mặc dù chúng có thể có liên quan đến vụ án nhưng những đồ vật, tài liệu đó chưa thể được gọi là chứng cứ. Bởi vậy, chỉ có thể quy định người bào chữa có quyền “đưa ra đồ vật, tài liệu” chứ không thể quy định người bào chữa có quyền “đưa ra chứng cứ”. Quyền của người bào chữa ở đây là quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi cho người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa. - Người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Việc gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc với người bị tạ giữ, bị can, bị cáo giúp người bào chữa có thể nắm được đầy đủ các tình tiết của vụ án, các đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lý, tâm tư, nguyện vọng của người được bào chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu thập được những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người này. Qua gặp gỡ, trao đổi, người bào chữa giải thích những vấn đề về pháp luật và cũng có thể tác động đến người bị tạm giữ, bị can, bị cáo làm cho họ có thái độ khai báo tốt hơn để có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. BLTTHS năm 2003 đã bổ sung quyền được gặp người đang bị tạm giữ so với BLTTHS năm 1988. Việc bổ sung này nhằm đảm bảo cho việc thực hiện quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa đã được quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003. Do pháp luật quy định trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ nên việc quy định quyền được gặp người đang bị tạm giữ của người bào chữa là hoàn toàn hợp lý và chính xác. Khi gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam thì người bào chữa phải tuân thủ các quy chế về tạm giữ, tạm giam quy định tại Nghị định 89/1998/NĐ-CP ban hành quy chế về tạm giữ, tạm giam (đã được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 98/2002/NĐ-CP ngày 27/11/2002). - Người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật. Qua việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội dung của vụ án, nắm được những chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội đối với người được bào chữa, trên cơ sở đó người bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Qua việc đọc hồ sơ, tài liệu của vụ án, người bào chữa cũng có điều kiện để phát hiện những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu, khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền. So với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 đã bổ sung quyền được sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật. Việc BLTTHS năm 1988 không trao cho người bào chữa quyền này đã dẫn đến những hạn chế nhất định. Bởi vì, đối với những vụ án đơn giản, ít hồ sơ, tài liệu cần đọc, ít tình tiết cần ghi chép thì người bào chữa có thể đọc hồ sơ, ghi chép tại chỗ những gì mình cho là cần thiết. Thực tế có những vụ án hồ sơ vụ án bao gồm quá nhiều bút lục, quá nhiều vấn đề nghiên cứu, trong những khoảng thời gian có hạn, người bào chữa không thể đọc được hết và càng không thể ghi chép hết những gì cần thiết. Điểm g Khoản 2 Điều 58 BLTTHS bổ sung cho người bào chữa có quyền được “sao chụp những tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa...” là hợp lý, tạo điều kiện cho người bào chữa thu thập tài liệu, tình tiết chuận bị cho việc bào chữa của mình. Pháp luật chỉ cho phép người bào chữa đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu nào có liên quan đến việc bào chữa của họ chứ không được đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu khác trong vụ án không liên quan đến việc bào chữa. BLTTHS năm 1988 cho phép người bào chữa có thể đọc, ghi chép những gì mình cho là cần thiết, quy định như vậy chưa thực sự rõ ràng, rất có thể dẫn đến tình trạng người bào chữa vì mục đích cá nhân lợi dụng quy định này để đọc, ghi chép cả những vấn đề không liên quan đến việc bào chữa. - Người bào chữa có quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Tại phiên tòa xét xử vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận, người bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra những lý lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo. - Người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Như vậy, BLTTHS 2003 đã mở rộng đối tượng có thể bị người bào chữa khiếu nại so với BLTTHS 1988 (người bào chữa chỉ có quyền khiếu nại quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng). Bên cạnh các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng thì cả những hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng có thể bị người bào chữa khiếu nại. Ví dụ: Khi hỏi cung bị can điều tra viên đã cố ý cản trở việc người bào chữa tham dự cuộc hỏi cung mà không có lý do chính đáng, người bào chữa có quyền khiếu nại với hành vi đó của điều tra viên. - Người bào chữa có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 57 của BLTTHS 2003. Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo. 2. Về nghĩa vụ của người bào chữa Theo quy định tại Khoản 3 Điều 58 BLTTHS 2003, người bào chữa có các nghĩa vụ sau đây: - Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của BLTTHS 2003. Các biện pháp mà pháp luật quy định cho người bào chữa để thực hiện nhiệm vụ của mình là tham gia các cuộc hỏi cung, tham gia vào hoạt động điều tra khác, gặp gỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này để thu thập các tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa hoặc thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Người bào chữa không được sử dụng các biện pháp bào chữa trái pháp luật như mua chuộc, dụ dỗ người làm chứng, người bị hại, người tiến hành tố tụng... Việc giao tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án là trách nhiệm của người bào chữa. Pháp luật ghi nhận người bào chữa có quyền thu thập các đồ vật, tài liệu liên quan đến việc bào chữa nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa hoàn thành nhiệm vụ của mình là bào chữa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chứ không phải thu thập các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án nhằm mục đích riêng nào khác của người bào chữa, bởi vậy, khi thu thập được các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án người bào chữa có trách nhiệm giao cho cơ quan tiến hành tố tụng. Tùy từng giai đoạn tố tụng, những tài liệu, đồ vật đó sẽ được giao cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 BLTTHS năm 2003. - Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự không chỉ nhằm bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà với tư cách là người hiểu biết pháp luật họ còn phải giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp của họ như tư vấn cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để họ thực hiện tốt nhất các quyền của mình trong tố tụng để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ví dụ, khi điều tra viên có những hành vi xâm hại một cách trái pháp luật tới quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, người bào chữa có thể giúp bị can khiếu nại với hành vi trái pháp luật đó của điều tra viên. - Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng. - Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa có nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật. Họ chỉ được sử dụng các biện pháp hợp pháp để thực hiện việc bào chữa, không được bóp méo sự thật của vụ án, biến không thành có, biến có thành không; họ phải tôn trọng và triệt để tuân thủ các quy định của pháp luật và không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp các tài liệu sai sự thật cho các cơ quan tiến hành tố tụng. - Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Thông thường, người bào chữa tham gia phiên tòa sơ thẩm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Nếu vụ án được xét xử ở cấp phúc thẩm mà có liên quan đến bị cáo hộ nhận bào chữa, tòa án xét xử phúc thẩm sẽ triệu tập người bào chữa tham gia phiên tòa. Đối với thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, chỉ những trường hợp cần thiết thì tòa án mới triệu tập người bào chữa. Khi được triệu tập ở bất cứ cấp xét xử nào người bào chữa có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập. Việc có mặt tại tòa án theo giấy triệu tập của tòa án vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền của người bào chữa. Họ phải có mặt theo giấy triệu tập của tòa án để thực hiện nhiệm vụ bào chữa của mình và đồng thời họ cũng được có mặt tại phiên tòa để thực hiện quyền tham gia xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa theo quy định tại điểm h Khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003. - Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa, không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. BLTTHS ghi nhận người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, có mặt trong các hoạt động điều tra khác để thu thập các thông tin cần thiết cho việc bào chữa của mình. Trong quá trình tham dự các hoạt động điều tra, người bào chữa có thể biết được những bí mật điều tra, theo quy định tại Khoản 3 Điều BLTTHS năm 2003, người bào chữa không được tiết lộ những bí mật điều tra mà mình biết. Sau khi kết thúc điều tra, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa, họ chỉ được phép sử dụng những tài liệu, tình tiết đó cho mục đích bào chữa cho bị can, bị cáo mà không được sử dụng vào mục đích xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. - Ngoài việc
Luận văn liên quan