Đề tài Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9

Việc đổi mới phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn được các cấp quản lí giáo dục và giáo viên đã và đang tổ chức thực hiện bước đầu cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy quá trình cảm thụ tác phẩm văn học của học sinh lớp 9 ở trên lớp cũng như khả năng cảm thụ, viết bài nghị luận tác phẩm văn học của các em còn nhiều hạn chế. Đề tài phân tích thực trạng và đề ra giải pháp rèn luyện kĩ năng viết bài cho học sinh lớp 9 để giải quyết tình hình kém chất lượng của học sinh như hiện nay. 2. Đối tượng và phương pháp

doc24 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 9833 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢN TÓM TẮT ĐỀ TÀI - Tên đề tài: RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT BÀI NGHỊ LUẬN TÁC PHẨM VĂN HỌC CHO HỌC SINH LỚP 9. Họ và tên giáo viên: Trần Thị Kim Sa. Đơn vị công tác : Trường THCS Thị Trấn. 1. Lý do chọn đề tài: Việc đổi mới phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn được các cấp quản lí giáo dục và giáo viên đã và đang tổ chức thực hiện bước đầu cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy quá trình cảm thụ tác phẩm văn học của học sinh lớp 9 ở trên lớp cũng như khả năng cảm thụ, viết bài nghị luận tác phẩm văn học của các em còn nhiều hạn chế. Đề tài phân tích thực trạng và đề ra giải pháp rèn luyện kĩ năng viết bài cho học sinh lớp 9 để giải quyết tình hình kém chất lượng của học sinh như hiện nay. 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu : a/ Đối tượng: Giáo viên dạy Ngữ văn và học sinh lớp 9 trường THCS Thị Trấn - Châu Thành, một số bài viết của học sinh lớp 9 về nghị luận văn học. Cụ thể là: - Thực trạng về phương pháp giảng dạy của giáo viên và bài viết của một số học sinh. - Những giải pháp chủ yếu để rèn luyện kĩ năng, nâng cao chất lượng . b/ Phương pháp : Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu, phân tích đối chiếu với thực trạng đưa ra những đề xuất có tính khoa học để giáo viên vận dụng. 3. Giải pháp rèn kĩ năng làm văn nghị luận văn học cho học sinh: Làm tập làm văn nghị luận văn học là huy động tổng hợp kiến thức Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn. Giáo viên: - Đổi mới phương pháp theo hướng tích cực hóa hoạt động dạy của giáo viên, học của học sinh, linh động trong việc sử dụng phương pháp, tổ chức tốt các hình thức hoạt động của các em. - Có phương pháp dạy lý thuyết tập làm văn nghị luận văn học, chú trọng cách làm bài, hướng nhiều vào việc thực hành để rèn luyện kĩ năng cần thiết cho các em: kĩ năng phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn. - Phương pháp hướng dẫn học sinh cảm thụ tốt văn bản, vận dụng tốt kiến thức tiếng Việt, chuẩn bị tốt nhất cho việc viết bài tập làm văn. - Thực hiện tốt việc ra đề, chấm bài, thực hiện tốt tiết trả bài viết. Học sinh: - Chuẩn bị bài tốt ở nhà, nắm chắc nội dung, nghệ thuật, rèn luyện kĩ năng phân tích cảm thụ tác phẩm, đọc sách báo mở rộng kiến thức, nâng cao kiến thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt. - Nắm vững kiểu văn bản và yêu cầu tạo lập văn bản, vận dụng tốt lý thuyết vào thực hành, thành thạo các thao tác nghị luận, mạnh dạn trình bày cảm thụ riêng của bản thân trước một tác phẩm… 4. Hiệu quả áp dụng: Nhờ có sự đổi mới trong phương pháp dạy và học nên chất lượng bài viết văn nghị luận văn học của học sinh được nâng cao rõ rệt. Cụ thể là: + Đa số bài làm của các em đều đáp ứng được yêu cầu của đề về nội dung, thể loại. + Nắm vững hơn phương pháp làm văn nghị luận về tác phẩm. Biết xây dựng luận điểm, trình bày các luận cứ rõ ràng, trình tự, thuyết phục hơn. + Ngày càng nhiều học sinh có sự cảm thụ sâu sắc về tác phẩm, có sự tìm tòi sáng tạo và tinh tế khi viết bài nghị luận. + Rất ít bài viết còn mắc các lỗi chính tả, dùng từ. Tình trạng viết câu sai ngữ pháp, không phân đoạn hay tách đoạn tùy tiện cũng giảm đáng kể. Nhiều em tránh được lối diễn đạt rườm rà, không rõ ràng, súc tích. 5. Phạm vi áp dụng: Giải pháp nêu ra trong đề tài đã được người viết áp dụng có hiệu quả ở lớp 9A1 và 9A2 trường THCS Thị Trấn năm học 2009- 2010. Có thể đây cũng là kinh nghiệm hữu ích cho giáo viên dạy Ngữ văn 9 nói chung đang quan tâm đến vấn đề này. Châu Thành, ngày 5 tháng 4 năm 2010 Người thực hiện Trần Thị Kim Sa MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Chúng ta - những người làm công tác giảng dạy nói chung và trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn nói riêng luôn băn khoăn, trăn trở trước chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ năng của chương trình giáo dục đổi mới ở từng bậc học và khả năng tiếp thu, trình độ thực tế của học sinh. Nhiều cuộc hội thảo về phương pháp, nhiều buổi sinh hoạt chuyên đề bộ môn được các cấp quản lý giáo dục tổ chức phần nào cũng định hướng được cho việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên. Bởi vì việc đổi mới dạy học phải bắt đầu từ việc tự đổi mới tư duy, quan niệm và cách làm việc của chính bản thân người thầy giáo. Sự đổi mới đó thể hiện qua sự thay đổi trong phương pháp giảng dạy, kế hoạch tổ chức một giờ học cho học sinh. Nhìn chung về phía người thầy đã được chuẩn bị một cách chu đáo. Tuy nhiên, nói đến đổi mới phương pháp dạy học, nhất là môn văn phải được hiểu là sự đổi mới đồng bộ đối với những hạn chế chủ quan của cả thầy lẫn trò. Người thầy giảng dạy đúng hướng, đúng cách , đạt mục đích cao nhất là dạy văn để dạy người. Trò phải suy nghĩ nhiều hơn, tích cực chủ động trong hoạt động nhận thức, cảm thụ và vận dụng các kiến thức, kĩ năng văn học. Thực tế cho thấy quá trình cảm thụ tác phẩm văn học của học sinh lớp 9 ở trên lớp cũng như khả năng cảm thụ, viết bài nghị luận tác phẩm văn học của các em còn nhiều hạn chế: thường khô cứng, sáo rỗng, lúng túng và máy móc… Các em thường dựa vào văn mẫu hoặc dựa vào các ý trong đề cương hay trong dàn ý thầy cô cho sẵn mà viết lại nên rất hạn chế về mạch cảm xúc ( không chân thật, còn gượng ép… ). Rất ít học sinh chịu tìm tòi, khám phá ra các ý mới, ý riêng, sâu sắc, ý hay do chính bản thân các em cảm nhận, thật sự rung động với tác phẩm. Bản thân là giáo viên được trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn lớp 9, tôi luôn trăn trở trước thực trạng chất lượng bài viết nghị luận tác phẩm văn học của học sinh. Vì vậy tôi chọn đề tài “Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9”, với mục đích phân tích thực trạng chất lượng bài viết của học sinh hiện nay, đối chiếu với phương pháp giảng dạy của giáo viên, đề ra kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy, cách thức rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh cuối cấp, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học văn, giải quyết tình hình kém chất lượng trong dạy học văn hiện nay. 2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Giáo viên, học sinh lớp 9 trường THCS Thị Trấn năm học 2008- 2009, 2009-2010. Một số tiết dạy văn bản, tiếng Việt và tập làm văn của giáo viên lớp 9 trong trường mà tôi được dự giờ trao đổi kinh nghiệm. Bài viết của học sinh ở các lớp được giảng dạy năm học 2008-2009, 2009-2010. 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Do thời gian và điều kiện của bản thân, trong phạm vi giải pháp, tôi tập trung đề cập đến: Những cơ sở lý luận để nghiên cứu giải pháp. Thực tiễn của vấn đề nghiên cứu. Thực trạng bài viết nghị luận tác phẩm văn học của học sinh, thực trạng quá trình giảng dạy của giáo viên. Những giải pháp rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9 đạt kết quả cao. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Để thực hiện giải pháp tôi đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu tài liệu nghiệp vụ dạy học môn Ngữ văn lớp 9, sách giáo khoa, sách giáo viên, ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lí giáo dục, quản lý chuyên môn, các giáo viên giỏi trong toàn quốc trên các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học… Phân tích đối chiếu: Phân tích đối chiếu yêu cầu giữa chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ năng đối với học sinh lớp 9 bậc THCS với những bài viết thực tế của học sinh, tìm ra những hạn chế chủ yếu của học sinh khi viết bài nghị luận tác phẩm văn học. c. Giả thuyết khoa học: Đưa ra những giải pháp, những đề xuất có tính khoa học để giáo viên vận dụng vào việc rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh nhằm phát huy khả năng tư duy, sáng tạo, đa dạng trong cách cảm, cách hiểu của các em trước những tác phẩm văn học. B. NỘI DUNG CƠ SỞ LÝ LUẬN: Từ năm 1998, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai dự án phát triển giáo dục THCS nhằm đổi mới một cách toàn diện bậc học này. Thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH khóa 10 ngày 9/12/2000 của Quốc hội, tháng 9 năm 2002, cả nước bắt đầu dạy học theo chương trình và SGK THCS mới bắt đầu từ lớp 6. Môn Ngữ văn là một trong những môn học có vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống các môn học của nhà trường phổ thông cũng là môn học có nhiều thay đổi nhất trong việc đổi mới chương trình, SGK, phương pháp đến đánh giá kết quả học tập. Nhiều vấn đề được đặt ra khi phải tiếp cận một chương trình mới, trong đó vấn đề đổi mới phương pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Chương trình SGK Ngữ văn lớp 9 được tổ chức thực hiện từ năm 2005-2006 đến nay đã được gần 5 niên học. Nội dung đổi mới chương trình, việc đổi mới phương pháp giảng dạy, chất lượng học tập của học sinh đã được phản ánh sôi nổi trên báo chí, trong hội thảo khoa học và các phương tiện thông tin đại chúng, song bài toán chất lượng là điều làm cho các nhà quản lý giáo dục, quản lý chuyên môn phải tính toán. Quan điểm đổi mới phương pháp dạy học chương trình Ngữ văn 9 là phải kết hợp nhiều phương pháp trong dạy học, là phải “tích hợp nhiều phương pháp trong bài học, tiết học và trong cả quá trình tổ chức hoạt động dạy học trên cơ sở xác định phương pháp chính gắn với đặc trưng của môn học. Tổ chức hoạt động dạy học theo hướng tích cực, phát huy năng lực chủ động, sáng tạo ở cả người dạy lẫn người học, chú trọng khái quát nội dung kiến thức tạo thuận lợi để học sinh lĩnh hội và phát triển các thao tác tư duy khoa học. Tăng cường và sử dụng hợp lý các phương tiện trong dạy học, “nâng cao chất lượng hoạt thực hành hướng tới đảm bảo sự phát triển năng lực cho mỗi cá nhân” ( Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy SGK lớp 9 -Vụ giáo dục trung học trang 6,7). Lớp 9 là lớp cuối của vòng II, đồng thời cũng là lớp cuối cùng của cấp THCS nên có một vị trí hết sức quan trọng : vừa phải tổng kết được những kiến thức, kĩ năng được học tập, rèn luyện trong bốn năm học, vừa phải chuẩn bị cho các kì thi, tạo tâm thế, tiềm lực cho học sinh học lên THPT hoặc đi vào cuộc sống. Nghị luận nói chung, nghị luận về tác phẩm văn học nói riêng có vị trí rất quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp 9. Thông qua việc đọc và học tác phẩm văn học, học sinh chẳng những đã có một vốn khá phong phú về kiến thức văn học ( tác phẩm, thể loại…) mà còn được nâng cao dần về năng lực cảm thụ , phân tích, bình giá, tác phẩm… Đó là một thuận lợi. Nhưng mặt khác, cũng cần nắm vững yêu cầu và mức độ cần đạt của kiểu bài nghị luận về tác phẩm trong chương trình. Tập làm văn 9 không đồng nhất yêu cầu và mức độ phân tích tác phẩm trong chương trình văn học và khi làm bài tập làm văn. Tác phẩm văn học bao giờ cũng là một tổng thể hoàn chỉnh giữa nội dung và phương thức biểu đạt, tức là nghệ thuật. Nghị luận về tác phẩm là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về giá trị nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể. Những nhận xét, đánh giá ấy phải xuất phát từ ý nghĩa ( cốt truyện, nhân vật, cảm xúc…) và nét đặc sắc về nghệ thuật ( xây dựng tình huống, nhân vật, từ ngữ, hình ảnh…) của tác phẩm mà người viết phát hiện và khái quát. Bài nghị luận về tác phẩm phải có bố cục chặt chẽ, mạch lạc, lập luận thuyết phục, lời văn chuẩn xác, gợi cảm. Như vậy, để làm tốt bài nghị luận về tác phẩm, giáo viên cần cho học sinh hiểu rõ tính chất tổng hợp của kiểu bài này Giáo sư Lê Trí Viễn cũng có lời nhắn nhủ: “ Dạy văn lấy cảm làm đầu”. Người GV dạy HS làm bài văn nghị luận về tác phẩm không thể nghèo nàn cảm xúc. Cho nên hướng gợi ý HS trình bày những cảm nhận, đánh giá tác phẩm phải xuất phát từ những rung cảm thẩm mĩ chân thật. Đồng thời phải biết kết hợp linh hoạt nhiều phép lập luận ( giải thích, chứng minh, phân tích…), phát huy tính tích cực, sáng tạo của cá nhân, không gò ép theo khuôn mẫu. Vì vậy, nếu ai đó tự cho rằng mình đã gợi đầy đủ các ý tưởng của tác phẩm qua từng trang truyện, từng dòng thơ thì chưa hẳn là một GV dạy tốt, nắm chắc phương pháp hướng dẫn HS cách làm bài văn nghị luận về tác phẩm. Năm 2008, Bộ Giáo dục tiếp tục triển khai cho giáo viên trên toàn quốc một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn, trong đó phương pháp giảng dạy phân môn Tập làm văn được chú trọng nhiều nhất cũng đã mở ra nhiều hướng suy nghĩ mới, giúp cho giáo viên giảng dạy tốt hơn nếu biết tự nghiên cứu và vận dụng sáng tạo hơn. 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN: a. Thực tiễn của vấn đề nghiên cứu: - Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn 9 nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng đã dược quan tâm rất nhiều. Với sự chỉ đạo của các cấp quản lí chuyên môn, về cơ bản đại đa số giáo viên đã nắm được phương pháp, vận dụng sáng tạo theo tình hình địa phương và theo đối tượng học sinh. Tuy nhiên thực tế vẫn còn nhiều giáo viên thực hiện chưa đúng chức năng, làm chưa tròn nhiệm vụ của mình, chưa tích cực nghiên cứu, chưa tìm ra phương pháp giảng dạy đạt hiệu quả cao, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh chưa được nâng lên, nhất là chất lượng bài viết văn nghị luận văn học. Kết quả các bài kiểm tra và thi học kì đạt rất thấp, chất lượng bài làm của học sinh giỏi chưa thật xuất sắc. - Đi sâu vào tìm hiểu thực trạng chúng ta có thể thấy được sự hạn chế trong phương pháp giảng dạy của giáo viên lẫn phương pháp tự học, tự nghiên cứu của của học sinh: + Về phía giáo viên: - Giáo viên chưa đảm bảo kết hợp và tích hợp giữa dạy Văn - Tiếng Việt và Tập làm văn - Giờ học văn bản, sự gợi mở giúp học sinh cảm thụ tác phẩm chưa đạt kết quả cao. Học sinh thụ động buộc giáo viên giảng nhiều, làm việc nhiều, làm thay cho trò, do đó làm tê liệt sự hào hứng học văn bản của học sinh, các em không nắm hoặc không có kiến thức văn chương dẫn đến thiếu vốn kiến thức khi làm bài tập làm văn. - Giờ tiếng Việt đòi hỏi giáo viên dạy cho học sinh dùng tiếng Việt một cách chính xác để giao tiếp, để cảm thụ vẻ đẹp ngôn từ và có cách diễn đạt tốt trong văn bản, nhưng giáo viên chưa vận dụng tối đa các tình huống giao tiếp, cho học sinh thực hành ít nên nhiều em viết sai chính tả, dùng từ đặt câu chưa đúng ngữ nghĩa, ngữ pháp. Đây là những kiến thức quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng bài văn. - Giờ tập làm văn học sinh chưa được học đến nơi đến chốn. Giáo viên chưa có cách giúp học sinh hiểu rõ kiến thức SGK bằng những ví dụ mẫu linh hoạt sáng tạo, có tác dụng khắc sâu kiến thức vì thực tế SGK vẫn còn một số bài trừu tượng, khó hiểu đối với học sinh. Giáo viên chưa chú ý đúng mức đến việc phát huy tinh thần tích cực chủ động của học sinh trước một bài lý thuyết văn nghị luận tác phẩm văn học, cung cấp kiến thức cơ bản về kiểu bài trước khi tạo lập văn bản hoặc bài thực hành luyện tập, luyện nói, nhiều học sinh nêu lên những vấn đề rất hay song giáo viên đã bỏ lỡ cơ hội để biểu dương. Khi phát động trao đổi tranh luận, có học sinh nêu những ý kiến sai, giáo viên chưa đưa ra “lực nắn” cần thiết, vì thế khả năng tư duy của học sinh không được phát huy. - Giáo viên ít nghiên cứu sách giáo viên và tham khảo thiết kế, các tài liệu bồi dưỡng có liên quan nên chưa có định hướng tốt nhất khi quyết định sử dụng phương pháp giảng dạy phù hợp cho từng bài thuộc các kiểu bài nghị luận văn học. - Việc xác định các phương pháp dạy tập làm văn cũng chưa chính xác. Có giáo viên chọn phương pháp bình giảng trong tiết cung cấp kiến thức về kiểu bài, chưa vận dụng các phương pháp thực hành trong giờ luyện tập … - Giáo viên chưa nghiên cứu để tìm ra nét khác biệt cơ bản giữa nghị luận tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích ) với nghị luận về đoạn thơ, bài thơ để từ đó hình thành kiến thức cho học sinh khi làm một bài cụ thể theo thể loại. - Giáo viên chưa nghiên cứu kĩ mục đích yêu cầu cần đạt, kĩ năng cần rèn luyện trong từng bài mà người biên soạn đưa vào trong SGK từ bài hình thành lý thuyết mới đến luyện tập thực hành hoàn chỉnh kiểu bài. Việc bố trí thời lượng cho tiết dạy chưa hợp lý, chưa dành nhiều thời gian cho thực hành, giáo viên khó có thể rèn luyện kĩ năng cho học sinh. - Việc ra đề kiểm tra, đề thi của giáo viên hiện nay cũng còn nhiều điều cần bàn. Một số giáo viên không nghiên cứu kĩ chương trình, không xây dựng được ma trận đề, không nắm chắc yêu cầu của từng kiểu văn bản sẽ dẫn đến ra đề không chuẩn mực, không đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng, tính thực tế. Đề bài không có tác dụng gợi tư duy sáng tạo khi cảm thụ văn học của học sinh. - Việc chấm bài cũng có nhiều thiếu sót. Thường là giáo viên chỉ cho học sinh biết điểm, có bài chấm không có lời phê nào hoặc phê bài còn dễ dãi, chưa cẩn thận, chưa cụ thể. Đa số giáo viên phê bài rất chung chung, nhận xét khái quát. Nhiều lời phê, nhận xét bên lề bài viết chưa giúp học sinh thấy được cụ thể lỗi sai của mình mà sửa. Các em không rõ lý do tại sao, vì lẽ gì mà đoạn văn, câu văn của mình bị phê là “lủng củng”, “câu què”, “tối nghĩa”, “chung chung”, cũng không hiểu có khi chỗ này “dùng từ” là nghĩa làm sao ( sai hay đúng ? Nếu sai thì sai thế nào?), chỗ kia “diễn đạt” là trục trặc hay trôi chảy, chỗ nọ một từ gạch chân là hay hay dở? Như thế rất khó giúp học sinh hiểu rõ mà tự sửa được, rút kinh nghiệm được. - Những giờ trả bài tiến hành không thống nhất theo chuyên đề mà ngành chuyên môn đã triển khai. Đa số giáo viên thực hiện không mấy công phu . Giáo án trả bài của giáo viên thường soạn qua quýt, không ghi rõ những lỗi cần phải sửa trên lớp, hoặc có thì cũng không ghi rõ cách sửa; lỗi nhặt từ bài làm của học sinh không tiêu biểu khó có thể rèn luyện những kĩ năng cần thiết nhất định. Có giáo viên trả bài rồi mới nhận xét ưu khuyết điểm, rồi hướng dẫn học sinh sửa chữa. + Về phía học sinh: - Chưa coi trọng bộ môn so với các môn khoa học tự nhiên nên chưa đầu tư, chưa có thái độ học tập đúng đắn; chưa có thói quen chuẩn bị bài trước khi đến lớp, chưa chịu khó tìm hiểu thêm để mở rộng kiến thức. - Học sinh học tập làm văn một cách máy móc. Trước một đề bài các em ít nghiên cứu, đọc loáng thoáng, phóng bút viết tràng giang đại hải, không chốt lại được ở một điểm nào mà đề bài yêu cầu. - Nhiều bài văn chưa đạt yêu cầu do chưa biết cách viện dẫn, dẫn chứng nghèo nàn, thiếu chính xác và không theo trình tự. - Học văn nghị luận văn học mà chưa biết cách phân biệt thể loại, kiểu bài. - Thiếu năng lực phân tích cần thiết, chưa thấy được cái hay, cái đẹp có thật trong văn chương do không chú ý trong giờ đọc- hiểu văn bản. Vì vậy làm văn phân tích chỉ là sự suy diễn một cách nôm na, thiếu chính xác, không sâu sắc. - Về ngữ pháp, các em viết câu không hoàn chỉnh, trong bài viết có nhiều câu què, câu cụt, câu tối nghĩa. Tình trạng mắc lỗi chính tả, ngữ pháp, dùng từ sai là phổ biến. Có bài viết từ đầu đến cuối các em không sử dụng dấu câu nào hoặc sử dụng không đúng. * Những hạn chế chủ yếu khi học sinh viết bài nghị luận văn học: - Cảm thụ tác phẩm, đoạn thơ, bài thơ chưa sâu sắc do chưa chịu khó đọc tác phẩm, chưa thuộc thơ, chưa nắm vững nội dung, nghệ thuật, cái hay, cái độc đáo của tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, chưa nắm cảm xúc, tình cảm của tác giả trong tác phẩm thơ trữ tình, chưa biết cách tiếp cận tác phẩm theo thể loại, chưa có cách cảm thụ riêng… - Chưa nắm chi tiết, thậm chí khái quát yêu cầu khi tạo lập văn bản nghị luận cho cả hai loại nghị luận về tác phẩm truyện và nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Do đó khi tạo lập văn bản các em thường mắc các khuyết điểm sau: + Phân tích đề chưa đúng, tìm không ra ý để viết nên phải kể lòng vòng câu chuyện hoặc diễn xuôi bài thơ, đoạn thơ. + Thực hiện nhiệm vụ từng phần trong bố cục ba phần của văn nghị luận chưa đầy đủ. Ví dụ khi viết phần mở bài, yêu cầu là giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác và bước đàu nêu đánh giá sơ bộ của mình về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm nhưng có học sinh giới thiệu không sót một chi tiết nào về tác giả (theo chú thích SGK) và đa số chưa rút ra được khái quát giá trị của tác phẩm để làm tiền đề cho lập luận tổng - phân - hợp của cả bài viết. Khi gặp đề bài phát biểu cảm nghĩ về nhân vật và nội dung vấn đề của tác phẩm như “Em hãy nêu cảm xúc và suy nghĩ của mình về nhân vật bé Thu và tình cảm cha con trong chiến tranh sau khi học xong truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng”, học sinh chưa biết giới thiệu cảm xúc suy nghĩ chung ở phần mở bài, triển khai làm rõ ở phần thân bài, khẳng định ở phần kết bài. + Việc triển khai bài viết ở phần thân bài bằng cách nêu các luận điểm và làm rõ luận điểm bằng các luận
Luận văn liên quan