Đề tài Rèn luyện năng lực độc lập sáng tạo cho học sinh trung học phổ thông

Bước sang thế kỉ XXI, xã hội loài người đã có những tiến bộ vượt bậc. Chúng ta hiện đang sống trong xã hội tri thức- đây là một hình thái xã hội mà trong đó tri thức trở thành yếu tố quyết định đối với nền kinh tế của một quốc gia. Con người là yếu tố trung tâm trong xã hội tri thức, là chủ thể kiến tạo xã hội. Đối với con người cá thể, tri thức là một cơ sở để xác định vị trí xã hội và khả năng hành động. Giáo dục đóng vai trò then chốt trong trong việc đào tạo con người và sự phát triển xã hội. Nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục trong việc khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, ngay trong Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam đã khẳng định: “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”[13]. Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục cần thực hiện tốt ba mục tiêu cơ bản sau: 1. Mục tiêu trí dục: cung cấp nền học vấn cơ bản, giúp học sinh hướng nghiệp một cách hiệu quả. 2. Mục tiêu phát triển : giúp học sinh phát triển năng lực nhận thức, hình thành nhân cách toàn diện . 3. Mục tiêu giáo dục : giáo dục thế giới quan duy vật khoa học, thái độ , xúc cảm, hành vi văn minh. Điều 28 Luật giáo dục nước ta nhấn mạnh: " PP giáo dục phổ thông phải phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng PP tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn ; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú HT cho HS". DH hướng tới việc phát huy tích cực, vai trò chủ động, tính sáng tạo của HS là xu thế chung của đổi mới giáo dục THPT hiện nay. Ở nước ta, cùng với chuyển biến bước đầu về chất lượng giáo dục, đổi mới PP DH đang từng bước được ghi nhận, thế nhưng về thực trạng giáo dục cho thấy chất lượng nắm vững kiến thức của HS không cao, đặc biệt việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, năng lực nhận thức, năng lực giải quyết vấn đề và khả năng tự học không được chú ý rèn luyện đúng mức. Một bộ phận không nhỏ HS thụ động trong HT do không làm được việc hoặc không chịu làm việc trong các giờ học.Trong hầu hết các giờ lên lớp vì giới hạn thời gian tiết học, GV chỉ cùng làm việc với một số HS khá, giỏi để hoàn thành bài dạy, số còn lại trong lớp nghe và im

doc151 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2403 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rèn luyện năng lực độc lập sáng tạo cho học sinh trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI PHẦN I: MỞ ĐẦU Bước sang thế kỉ XXI, xã hội loài người đã có những tiến bộ vượt bậc. Chúng ta hiện đang sống trong xã hội tri thức- đây là một hình thái xã hội mà trong đó tri thức trở thành yếu tố quyết định đối với nền kinh tế của một quốc gia. Con người là yếu tố trung tâm trong xã hội tri thức, là chủ thể kiến tạo xã hội. Đối với con người cá thể, tri thức là một cơ sở để xác định vị trí xã hội và khả năng hành động. Giáo dục đóng vai trò then chốt trong trong việc đào tạo con người và sự phát triển xã hội. Nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục trong việc khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, ngay trong Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam đã khẳng định: “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”[13]. Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục cần thực hiện tốt ba mục tiêu cơ bản sau: 1. Mục tiêu trí dục: cung cấp nền học vấn cơ bản, giúp học sinh hướng nghiệp một cách hiệu quả. 2. Mục tiêu phát triển : giúp học sinh phát triển năng lực nhận thức, hình thành nhân cách toàn diện . 3. Mục tiêu giáo dục : giáo dục thế giới quan duy vật khoa học, thái độ , xúc cảm, hành vi văn minh. Điều 28 Luật giáo dục nước ta nhấn mạnh: " PP giáo dục phổ thông phải phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng PP tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn ; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú HT cho HS". DH hướng tới việc phát huy tích cực, vai trò chủ động, tính sáng tạo của HS là xu thế chung của đổi mới giáo dục THPT hiện nay. Ở nước ta, cùng với chuyển biến bước đầu về chất lượng giáo dục, đổi mới PP DH đang từng bước được ghi nhận, thế nhưng về thực trạng giáo dục cho thấy chất lượng nắm vững kiến thức của HS không cao, đặc biệt việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, năng lực nhận thức, năng lực giải quyết vấn đề và khả năng tự học không được chú ý rèn luyện đúng mức. Một bộ phận không nhỏ HS thụ động trong HT do không làm được việc hoặc không chịu làm việc trong các giờ học.Trong hầu hết các giờ lên lớp vì giới hạn thời gian tiết học, GV chỉ cùng làm việc với một số HS khá, giỏi để hoàn thành bài dạy, số còn lại trong lớp nghe và im lặng ghi chép. Xét về mặt nhận thức và hành động, nhiều GV không chuyển hoá được mục tiêu tích cực hoá hoạt động HT của HS về việc thiết kế và thi công bài dạy, cụ thể hơn là chưa làm tốt việc định hướng và tổ chức các hoạt động HT cho HS bằng hệ thống các việc làm tự lĩnh hội theo phương châm "dạy suy nghĩ, dạy tự học ". Nhằm đáp ứng những đòi hỏi thực tế trên, bước sang năm học 2006 - 2007, trên phạm vi cả nước chính thức đưa vào sử dụng đại trà SGK lớp 10 theo chương trình THPT ban cơ bản và ban nâng cao.Với những yêu cầu mới, đòi hỏi mỗi GV trong quá trình DH cần chú ý tạo điều kiện cho HS phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động trong việc tiếp thu kiến thức phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Môn HH là môn học trong nhóm môn Khoa học tự nhiên. Môn HH cung cấp cho HS những tri thức khoa học phổ thông cơ bản về các chất, sự biến đổi các chất, mối liên hệ qua lại giữa công nghệ HH, môi trường và con người. Những tri thức này góp phần phát triển tiềm lực trí tuệ, năng lực nhận thức và năng lực hành động cho HS. Trước tình hình đó, là một GV HH, với suy nghĩ và mong muốn được đóng góp và làm tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình trong DH HH nhằm giúp HS phát triển năng lực độc lập sáng tạo, góp phần đào tạo con người theo định hướng đổi mới giáo dục của Đảng là thực sự cần thiết. Đó là lý do tôi chọn đề tài là: “rèn luyện năng lực độc lập sáng tạo cho HS THPT thuộc tỉnh Sơn La” II. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1. Khách thể nghiên cứu Quá trình DH HH ở trường THPT. 2. Đối tượng nghiên cứu Rèn luyện năng lực độc lập sáng tạo cho HS trong DH HH ở trường THPT tỉnh Sơn La. III. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI Nghiên cứu đề xuất một số biện pháp DH nhằm bồi dưỡng, rèn luyện năng lực độc lập sáng tạo cho HS thông qua việc DH HH ở trường THPT. IV. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI Nghiên cứu lý luận về đổi mới PP DH HH, về những biểu hiện của năng lực độc lập sáng tạo, kiểm tra đánh giá và biện pháp rèn luyện các năng lực đó cho HS trường THPT. Điều tra thực tiễn dạy và học HH của GV và HS THPT trong việc bồi dưỡng rèn luyện năng lực độc lập sáng tạo trong dạy và học HH. Đề xuất một số biện pháp rèn luyện cho HS nâng cao năng lực độc lập sáng tạo trong dạy và học HH ở trường THPT. Kiểm tra giá trị và tính khả thi của biện pháp được đề xuất. V. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Nếu có những biện pháp phù hợp và trình độ cần thiết của GV thì có thể bồi dưỡng năng lực độc lập sáng tạo cho HS thông qua việc dạy và học HH ở trường THPT. VI. ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VĂN Đề xuất một số cơ sở lý luận về những biểu hiện và cách đánh giá năng lực độc lập sáng tạo của HS THPT. Đề xuất một số biện pháp bồi dưỡng rèn luyện năng lực độc lập sáng tạo cho HS thông qua việc dạy và học HH ở trường THPT. Lựa chọn và xây dựng được một hệ thống các BT ở tất cả các chương của HH lớp 11 nhằm bồi dưỡng năng lực độc lập sáng tạo của HS. VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.Phương pháp nghiên cứu lý thuyết Nghiên cứu các nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài như tính sáng tạo và rèn luyện năng lực sáng tạo, chương trình SGK HH trường THPT, Luật giáo dục, các chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới giáo dục ở trường phổ thông, về đổi mới PP dạy và học... 2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn Sử dụng PP điều tra để điều tra về thực tiễn dạy và học HH của GV và HS THPT ở tỉnh Sơn La. Sử dụng PP thực nghiệm sư phạm để tiến hành lên lớp theo hai loại giáo án để so sánh. 3. Phương pháp toán học Sử dụng PP thống kê toán học để xử lý kết quả thực nghiệm. PHẦN II: NỘI DUNG CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI I. NĂNG LỰC SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH, NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NĂNG LỰC SÁNG TẠO VÀ CÁCH KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ Chúng ta đang đứng ở những năm đầu của thế kỷ XXI, thế giới đang xảy ra sự bùng nổ tri thức khoa học và công nghệ. Sáng tạo là một phẩm chất tư duy được nhấn mạnh trong mục tiêu giáo dục nhằm chuẩn bị nguồn lực con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Báo cáo của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng về phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 đã nêu rõ: “Tạo được chuyển biến cơ bản về phát triển giáo dục và đào tạo...Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, PP dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ GV và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của HS, SV”[13]. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho mỗi nhà giáo dục là tìm ra và đổi mới PP DH phù hợp, hiện đại để bồi dưỡng năng lực sáng tạo, bồi dưỡng HS giỏi, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Vậy năng lực sáng tạo là gì? Tính sáng tạo được biểu hiện như thế nào trong quá trình dạy học? 1. Quan niệm về năng lực sáng tạo của học sinh 1.1. Khái niệm về năng lực Năng lực (tiếng la tinh là“competentia”, có nghĩa là gặp gỡ; khái niệm năng lực được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau)[20]. Năng lực: Là một thuộc tính tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm đạo đức. Năng lực: Là những khả năng và kỹ xảo học được hoặc sẵn có của cá thể nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về động cơ, xã hội…và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt[34]. Hiện nay, người ta quan tâm nhiều đến phát triển năng lực hành động. Vậy năng lực hành động có cấu trúc như thế nào ? Cấu trúc năng lực hành động: Năng lực chuyên môn: Là khả năng thực hiện các nhiệm vụ về chuyên môn cũng như đánh giá kết quả một cách độc lập, có PP và đảm bảo chính xác về mặt chuyên môn (bao gồm cả khả năng tư duy logic, phân tích, tổng hợp và trừu tượng; khả năng nhận biết các mối quan hệ thống nhất trong quá trình). Năng lực PP: Là khả năng đối với những hành động có kế hoạch, định hướng mục đích trong công việc giải quyết các nhiệm vụ và vấn đề đặt ra. Trung tâm của năng lực PP là những PP nhận thức, xử lý, đánh giá, truyền thụ và giới thiệu.  Năng lực xã hội: Là khả năng đạt được mục đích trong những tình huống xã hội cũng như trong những nhiệm vụ khác nhau với sự phối hợp chặt chẽ với những thành viên khác. Trọng tâm của năng lực xã hội là ý thức được trách nhiệm của bản thân cũng như của những người khác, tự chịu trách nhiệm, tự tổ chức; có khả năng thực hiện các hành động xã hội, khả năng cộng tác và giải quyết xung đột. Năng lực cá thể: Là khả năng suy nghĩ và đánh giá được những cơ hội phát triển cũng như những giới hạn của mình; phát triển được năng khiếu cá nhân cũng như xây dựng và thực hiện kế hoạch cho cuộc sống riêng; những quan điểm, chuẩn giá trị đạo đức và động cơ chi phối các hành vi ứng xử. Các thành phần năng lực “gặp nhau” tạo thành năng lực hành động. NLCN NLCM NLXH NLPP NLHD NLCN: Năng lực cá nhân. NLCM: Năng lực chuyên môn. NLXH: Năng lực xã hội. NLPP: Năng lực phương pháp. NLHD: Năng lực hành động. 1.2. Khái niệm về sáng tạo(Creation) Có rất nhiều quan niệm về sáng tạo: Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô tập 42 đó là: "Sáng tạo là một loại hoạt động mà kết quả của nó là một sản phẩm tinh thần hay vật chất có tính cách tân, có ý nghĩa xã hội, có giá trị". Theo từ điển tiếng việt thông dụng thì: "Tạo ra giá trị mới, giá trị đó có ích hay có hại tùy theo quan điểm của người sử dụng và đối tượng nhận nhận hiệu quả dùng" Sáng tạo thường được hiểu là tạo ra, đề ra những ý tưởng mới, độc đáo, hữu ích, phù hợp với hoàn cảnh. Có tác giả cho rằng sáng tạo là: "quá trình trở nên nhạy cảm đối với những khó khăn, khiếm khuyết, những lỗ hổng kiến thức, những yếu tố còn thiếu, những bất ổn... là quá trình xác định khó khăn, tìm kiếm giải pháp, đưa ra những phỏng đoán, nêu lên những giả thuyết về sự khiếm khuyết, kiểm tra và tái kiểm tra những giả thuyết đó, có thể là cả điều chỉnh và kiểm tra lại những điều chỉnh đó và cuối cùng là truyền đạt kết quả”[44]. Sáng tạo, nói một cách đơn giản là dám thách thức những ý kiến và phương cách đã được mọi người chấp nhận để tìm ra những giải pháp hoặc khái niệm mới. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hai bán cầu não xử lý thông tin theo cách thức khác nhau: Phần bên trái của bán cầu não xử lý thông tin theo cách logic Phần bên phải của bán cầu não tập trung vào phần sáng tạo và trực cảm. Như vậy, hoạt động sáng tạo có cơ sở sinh lý thần kinh và tư duy của con người bị chi phối bởi một trong hai bán cầu não. Tâm lý học đã nghiên cứu và đi đến kết luận rằng tất cả mọi người đều có khả năng sáng tạo, sáng tạo nhỏ hay sáng tạo lớn. Nếu được rèn luyện thì sáng tạo sẽ phát triển không ngừng và ngược lại nếu không rèn luyện thì sáng tạo sẽ dần mai một. 1.3. Những quan niệm về năng lực sáng tạo ở học sinh Từ các cơ sở trên chúng ta có thể có những quan niệm về năng lực sáng tạo của học sinh như sau[22]: 1. Năng lực tự chuyển tải tri thức và kỹ năng từ lĩnh vực quen biết sang tình huống mới, vận dụng kiến thức đã học trong điều kiện, hoàn cảnh mới. 2. Năng lực nhận thấy vấn đề mới trong điều kiện quen biết (tự đặt câu hỏi mới cho mình và cho mọi người về bản chất của các điều kiện, tình huống, sự vật). Năng lực nhìn thấy chức năng mới của đối tượng quen biết. 3. Năng lực nhìn thấy cấu trúc của đối tượng đang nghiên cứu. Thực chất là bao quát nhanh chóng, đôi khi ngay tức khắc, các bộ phận, các yếu tố của đối tượng trong mối tương quan giữa chúng với nhau. 4. Năng lực biết đề xuất các giải pháp khác nhau khi phải xử lý một tình huống. Khả năng huy động các kiến thức cần thiết để đưa ra giả thuyết hay các dự đoán khác nhau khi phải lí giải một hiện tượng. 5. Năng lực xác nhận bằng lí thuyết và thực hành các giả thuyết (hoặc phủ nhận nó) . Năng lực biết đề xuất các phương án thí nghiệm hoặc thiết kế sơ đồ thí nghiệm để kiểm tra giả thuyết hay hệ quả suy ra từ giả thuyết hoặc để đo một đại lượng nào đó với hiệu quả cao nhất có thể được trong những điều kiện đã cho. 6. Năng lực nhìn nhận một vấn đề dưới những góc độ khác nhau, xem xét đối tượng ở những khía cạnh khác nhau, đôi khi mâu thuẫn nhau. Năng lực tìm ra các giải pháp lạ, chẳng hạn đối với bài toán hóa học, có nhiều cách nhìn đối với việc tìm kiếm lời giải, năng lực kết hợp nhiều phương pháp giải bài tập để tìm ra một phương pháp mới, độc đáo. Như vậy năng lực sáng tạo chính là khả năng thực hiện được những điều sáng tạo. Đó là biết làm thành thạo và luôn đổi mới, có những nét độc đáo riêng luôn phù hợp với thực tế. Luôn biết và đề ra những cái mới khi chưa được học, nghe giảng hay đọc tài liệu hay tham quan về việc đó nhưng vẫn đạt kết quả cao. Đối với học sinh phổ thông tất cả những gì mà họ „tự nghĩ ra‟ khi giáo viên chưa dạy, học sinh chưa đọc sách, chưa biết được nhờ trao đổi với bạn đều coi như có mang tính sáng tạo. Sáng tạo là bước nhảy vọt trong sự phát triển năng lực nhận thức của học sinh. Không có con đường logic để dẫn đến sáng tạo, bản thân học sinh phải tự tìm lấy kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình. Cách tốt nhất để hình thành và phát triển năng lực nhận thức, năng lực sáng tạo của học sinh là đặt họ vào vị trí chủ thể hoạt động tự lực, tự giác, tích cực của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, phát triển năng lực sáng tạo, hình thành quan điểm đạo đức. Như vậy trách nhiệm chủ yếu của người giáo viên là tìm ra biện pháp hữu hiệu để rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh từ khi cắp sách đến trường . 2. Những biểu hiện của năng lực sáng tạo của học sinh Trong quá trình học tập của học sinh, sáng tạo là yêu cầu cao nhất trong bốn cấp độ nhận thức: biết, hiểu, vận dụng, sáng tạo. Tuy nhiên ngay từ những buổi đầu lên lớp hoặc làm việc mỗi học sinh đã có thể có những biểu hiện tích cực thể hiện năng lực sáng tạo của mình. Những biểu hiện đó cụ thể là : 1. Dám mạnh dạn đề xuất những cái mới không theo đường mòn, không theo những quy tắc đã có và biết cách biện hộ và phản bác vấn đề đó. Ví dụ : Đối với một bài toán có thể đưa ra một cách giải nào đó khác những cách đã biết và biết cách lập luận để bảo vệ cách giải đó . 2. Biết tự tìm ra vấn đề, tự phân tích, tự giải quyết đúng với những bài tập mới, vấn đề mới. Ví dụ : Khi giáo viên cho một dạng bài tập mới, hoặc một câu hỏi mới chưa từng gặp, học sinh có thể tự phân tích, phát hiện ra vấn đề cốt lõi và giải quyết đúng. 3. Biết trả lời nhanh chính xác câu hỏi của giáo viên, biết phát hiện những vấn đề mấu chốt, tìm ra ẩn ý trong những câu hỏi, bài tập hoặc vấn đề nào đó. Ví dụ : Học sinh dễ dàng phát hiện ra những vấn đề dễ bị nhầm lẫn khi giáo viên cho một bài tập hay câu hỏi mà học sinh không nắm chắc. 4. Biết vận dụng tri thức thực tế để giải quyết vấn đề khoa học và ngược lại biết vận dụng tri thức khoa học để đưa ra những sáng kiến, những giải thích, áp dụng phù hợp. Ví dụ : Khi điều chế một chất nào đó nhưng hóa chất cần thiết không có, học sinh có thể thay bằng hóa chất khác nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu. Học sinh dựa vào kiến thức đã học để giải thích những vấn đề xảy ra trong cuộc sống, những hiện tượng tự nhiên : hiện tượng ma trơi, mưa axit, thạch nhũ ... 5. Biết kết hợp các thao tác tư duy và các phương pháp phán đoán, đưa ra kết luận chính xác ngắn gọn nhất. Ví dụ: Khi học xong một bài học hay một chương học sinh biết tự phân tích, so sánh với các bài học trước để khái quát hóa và đưa ra mối liên hệ giữa các bài, các chương đã được học. 6. Biết trình bày linh hoạt một vấn đề, dự kiến nhiều phương án giải quyết. Ví dụ : Đối với một bài toán có thể đưa ra rất nhiều cách giải khác nhau hoặc với một câu hỏi mở có thể đưa ra nhiều phương án trả lời. 7. Luôn biết đánh giá và tự đánh giá công việc, bản thân và đề xuất biện pháp hoàn thiện. Ví dụ: Học sinh tự nhận thấy được những điểm yếu kém, lỗ hổng kiến thức của mình và tìm ra được phương pháp học tập thích hợp để khắc phục chúng. 8. Biết cách học thầy, học bạn, biết kết hợp các phương tiện thông tin, khoa học kĩ thuật hiện đại trong khi tự học. Biết vận dụng và cải tiến những điều học được. Ví dụ : Học sinh có thể tự học trên các phương tiện thông tin đại chúng: trên mạng internet, trên báo, tivi, radio... 9. Biết thường xuyên liên tưởng . Ví dụ: Học sinh có thể nhìn các sự vật, các khái niệm, các định nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau như định nghĩa chất oxi hóa, chất khử. Trên đây chúng tôi đã đề cập đến một số những biểu hiện thường thấy của những học sinh thông minh, sáng tạo trong học tập và lao động. Tuy nhiên những biểu hiện của năng lực sáng tạo có được thể hiện hay không, thể hiện nhiều hay ít còn tuỳ thuộc vào cách kiểm tra đánh giá của giáo viên. 3. Cách kiểm tra đánh giá năng lực sáng tạo của học sinh Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Để đào tạo những con người năng động sáng tạo, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế. Đánh giá kết quả học tập của học sinh là việc làm thường xuyên của người giáo viên. Chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm trong việc đánh giá kết quả học tập của học sinh qua các bài tập tái hiện. Đối với các bài tập sáng tạo thì khi đánh giá có thể dựa vào các biểu hiện của năng lực sáng tạo. Tuy nhiên để giúp việc kiểm tra đánh giá năng lực sáng tạo một cách dễ dàng, chính xác ta có thể áp dụng các cách sau: 1. Sử dụng phối hợp các phương pháp kiểm tra đánh giá khác nhau như viết, vấn đáp, thí nghiệm, trắc nghiệm tự luận, trắc nghiệm khách quan. 2. Sử dụng các câu hỏi phải suy luận, bài tập có yêu cầu tổng hợp, khái quát hóa, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn. 3. Chú ý kiểm tra tính linh hoạt, tháo vát trong thực hành, thực nghiệm (thí nghiệm hóa học, sử dụng phương tiện trực quan). 4. Kiểm tra việc thực hiện những bài tập sáng tạo và tìm ra cách giải ngắn nhất, hay nhất (những bài tập yêu cầu học sinh đề xuất nhiều cách giải quyết). 5. Đánh giá cao những biểu hiện sáng tạo dù nhỏ. II. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC, XU HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HIỆN NAY ĐỂ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC ĐỘC LẬP SÁNG TẠO CHO HỌC SINH 1. Những xu hướng đổi mới phương pháp dạy học 1. 1. Phương pháp 1.1.1. Phương pháp là con dường nhận thức khoa học Phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện, là tổ chức các bước trí tuệ để tìm ra và chứng minh chân lý. Theo Hêghen “phương pháp là ý thức vận động bên trong nội dung” từ định nghĩa trên ta thấy giữa nội dung dạy học và phương pháp có sự thống nhất với nhau, không thể tách rời nhau được. Như vậy “Phương pháp không phải là hình thức bên ngoài mà chính là linh hồn và khái niệm của nội dung”[26]. Ví dụ: · Phương pháp làm ra các dụng cụ lao động; · Phương pháp quy nạp. · Phương pháp diễn dịch. · Phương pháp biện chứng. Phương pháp cũng đồng nghĩa với kỹ thuật và biện pháp khoa học như phương pháp thuyết trình, phương pháp thí nghiệm. Phương pháp còn là tổ hợp những quy tắc, nguyên tắc dùng để chỉ đạo hành động như nguyên tắc trực quan trong dạy học. 1.1.2. Các quy luật cơ bản chi phối phương pháp 1.1.1.1. Mặt khách quan và mặt chủ quan Như chúng ta đã biết phương pháp gồm 2 mặt : Mặt khách quan và mặt chủ quan. Mặt khách quan của phương pháp là đối tượng bị chi phối bởi các quy luật khách quan. Do đó chủ thể phải ý thức được một cách chân thực. Ví dụ có rất nhiều quy luật tác động tới phương pháp giảng dạy hoá học như: Quy luật tâm lý, lý luận dạy học... Mặt chủ quan của phương pháp là những hành động đúng đắn của chủ thể trong việc lựa chọn các phương pháp thích hợp với các quy luật. Hai mặt chủ quan và khách quan của phương pháp luôn tác động qua lại với nhau, từ đó tìm ra được phương pháp hiệu nghiệm. Trên cơ sở đó chủ thể có những thao tác đúng đắn với đối tượng. 1.1.1.2. Mục đích và nội dung chi phối phương pháp P

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docren_luyen_nang_luc.doc
  • pdfren_luyen_nang_luc_doc_lap_sang_tao_cho_hs_thpt_thuoc_tinh_son_la_4879.pdf
Luận văn liên quan