Việt Nam là một đất nước hình thành hơn bốn nghìn năm lịch sử, trong quá trình hình thành và phát triển của mình đất nước Việt Nam đã tạo nên cho mình một nềm văn hóa riêng mang đậm nét văn hóa Đông Nam Á. Bên cạnh đó nề văn minh Việt Nam cũng phát triển không ngừng qua bao tiến trình lịch sử. Nhưng không ít người nhầm lẫn giữa hai khái niệm này và đôi lúc sử dụng hai khái niệm này như một từ dồng nghĩa. Để hiểu rõ hơn về hai khái niệm đó chúng ta đi vào so sánh khái niện văn minh Việt Nam và khái niệm văn hóa Việt Nam.
15 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2895 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài So sánh khái niện văn minh Việt Nam và khái niệm văn hóa Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ BÀI
Việt Nam là một đất nước hình thành hơn bốn nghìn năm lịch sử, trong quá trình hình thành và phát triển của mình đất nước Việt Nam đã tạo nên cho mình một nềm văn hóa riêng mang đậm nét văn hóa Đông Nam Á. Bên cạnh đó nề văn minh Việt Nam cũng phát triển không ngừng qua bao tiến trình lịch sử. Nhưng không ít người nhầm lẫn giữa hai khái niệm này và đôi lúc sử dụng hai khái niệm này như một từ dồng nghĩa. Để hiểu rõ hơn về hai khái niệm đó chúng ta đi vào so sánh khái niện văn minh Việt Nam và khái niệm văn hóa Việt Nam.
II. NỘI DUNG
1, Định Nghĩa
- Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống ; theo nghĩa chuyên biệt để chỉ phát triển của một giai đoạn …Hay nghĩa rộng thì văn hóa gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡn phong tục, lỗi sống, lao động…Nhưng có thể xác định 4 đặc trưng cơ bản cảu văn háo ta có thể tộng hợp lại để nêu ra một khái niệm văn hóa như sau:
- Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình lao động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.
Văn minh là sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tại thời điểm xét đến để tạo nên, duy trì, vận hành và tiến hoá xã hội loài người. Các yếu tố của văn minh có thể hiểu gọn lại là di sản tích luỹ tri thức, tinh thần và vật chất của con người kể từ khi loài người hình thành cho đến thời điểm xét đến. Đối nghịch với văn minh là hoang dã, man rợ, lạc hậu. Khái niệm văn minh chỉ mang tính tương đối, có tính so sánh tại thời điểm xét đến mà không có giá trị tuyệt đối.
Có thể định nghĩa như sau: Văn Minh là một phần của Văn Hóa, đặc biệt là tình trạng tiến bộ của con người trong phạm vi kỹ thuật và những cải tiến đời sống vật chất.
2, sự khác nhau cơ bản của văn hóa và văn min
Văn minh thể hiện “ trình độ phát triển”. Trong khi văn hóa luôn có bề dày quá khứthì văn minh là một lát cắt đồng đại.
Sự khác biệt của văn hóa và vănn minh về giá trin tinh thầnvaf tính lịch sử dẫn đến sự khác biệt về phạm vi: văn hóa mang tính dân tộc còn văn m inh mang tính quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại, bở lẽ các vật chất thì dễ phôe biến lây lan.
Sưh khác biệt về nguồn gốc thể hiện ở: Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp, còn văn minh gắn bó nhiều hơn với phương tây đô thị
3, Nhứng nét tiêu biểu của nền văn minh Việt Nam.
Nói theo ngôn ngữ chủng học, Việt Nam là một trong những cái nôi loài người, thì nền văn minh Việt Nam cũng là nền văn minh cổ nhất thế giới nói chung và Châu Á nói riêng. Danh xưng Lạc Việt, Đại Việt và Đại Nam biểu trưng ba sắc thái đặc biệt của nền văn minh Việt Nam, trải qua ba thời kỳ dài hơn bốn nghìn năm của lịch sử dân tộc.
Cần phân tích những nét tiêu biểu của nền văn minh Việt Nam trong ba thời kỳ nói trên để thấy rõ nó là một thực thể khác biệt với các nền văn minh khác, nhất là các nền văn minh mà nó có liên hệ, gần gũi như văn minh Chàm, văn minh Trung Quốc.
Nền văn minh Lạc Việt (từ khởi thủy đến thế kỷ 3 trước Công Nguyên) xuất hiện với tất cả vẻ rực rỡ huy hoàng của một nền văn minh nông nghiệp mà đỉnh cao là ở thời kỳ Hùng Vương, thời kỳ đồng thau phát triển (thời kỳ Đông Sơn).
Nói thời kỳ Hùng Vương là thời kỳ tiêu biểu của nền văn minh Lạc Việt bởi vì nó mang tính chất khai sáng ở tất cả các mặt.
Về mặt kinh tế xã hội, nghề nông trồng lúa nước là cơ sở phát khởi cho mọi nguồn sinh hoạt. Trên cơ sở đó, ý thức xây dựng và bảo vệ đời sống phát triển. Ngành thủ công nghiệp ở thời kỳ Hùng Vương đã để lại nhiều công trình độc đáo về đồ đồng (lưỡi cầy cuốc, rìu, vũ khí như đao, tên, mũi lao, các loại chậu, thạp, ... và điển hình nhất là trống đồng), đồ sắt (như cuốc, rìu, mai, vũ khí như kiếm, giáo), đồ gốm (đồ đựng và đun nấu như nồi, vò, bình chậu, bát đĩa ...), đồ đá (dụng cụ sản xuất như rìu, lưỡi đục, chày, bàn mài), đồ trang sức bằng đá (như vòng đeo đủ kiểu), đồ gỗ (vũ khí như lưỡi giáo). Các nghề cũng khá phát triển như nghề sơn, nghề xe sợi kết vải (bằng bông, đay, gai), nghề đan lát (bằng tre nứa). Riêng về trống đồng là những tác phảm tập trung nhiều tài năng về kỹ thuật, mỹ thuật và khoa học, đáng kể là trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ.
Làng xã là ý thức sơ khởi của tổ chức xã hội, trong đó gia đình phụ hệ là nền tảng. quyền tư hữu tài sản về ruộng đất cũng đã manh nha trong buổi đầu. Tất cả cơ bản của nền văn minh nông nghiệp ấy đã tồn tại hàng ngàn năm sau.
Về mặt văn hóa, những gì còn tồn tại đến nay và còn được gọi là truyền thống dân tộc cũng phát xuất từ thời Hùng Vương như tín ngưỡng (thờ thần), phong tục (hôn nhân, tang lễ), hội lễ (hội hè đình đám ngày xuân) ...
Nền văn minh Đại Việt kế tiếp (từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 18), biểu hiệu ở tất cả các mặt những đặc điểm của một dân tộc đã trưởng thành sau một nghìn năm khổ nhục vì ách Bắc thuộc. Những ý thức và khả năng xây dựng đời sống toàn thiện đã lắng chìm trong giấc ngủ nghìn năm ấy để bừng dậy với tất cả sức sống mãnh liệt của dân tộc ở thời kỳ độc lập.
Vì vậy, nền văn minh Đại Việt biểu dương ở nhiều mặt và có tính chất phong phú toàn diện.
Ở thời kỳ này, chế độ quân chủ đã được thành lập và tổ chức xã hội dựa trên sự cấu tạo của bốn tầng lớp: sĩ, nông, công, thương. Tuy nông nghiệp đặt xuống hàng thứ yếu nhưng không chính quyền nào chối bỏ vai trò quan trọng của nông nghiệp đối với sự tồn tại của xã hội, đã ban hành nhiều chính sách, chủ trương nhằm bảo vệ, cải tiến nông nghiệp và hiệu năng hóa sản xuất.
Khuôn khổ gia đình đã mở rộng thành gia tộc. Xã thôn vẫn là đơn vị tự trị, nhưng còn phải đóng vai trò liên hệ trong toàn bộ. cơ cấu xã hội, đó là quốc gia. và ý thức quốc gia bắt đầu nẩy nở thành sức mạnh tinh thần của dân tộc.
Do đó, dân tộc Đại Việt đã hiên ngang đứng lên đánh đuổi những thế lực cường bạo bao lần muốn xâm chiếm lãnh thổ của mình. Có thể ghi nhận những võ công của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung đã làm rạng danh quốc gia Đại Việt.
Khi xã hội phát triển thì các tổ chức nhằm củng cố xã hội cũng trở nên phức tạp. Quan chế, binh chế, pháp chế được thiết lập. Nét tiêu biểu của nền văn minh Đại Việt được biểu lộ khá rõ về mặt pháp chế, nhất là dưới triều Lý và triều Lê.
Dưới triều Lý, bắt đầu có pháp luật thành văn với bộ Hình Thư, quy định các hình phạt về tội thập ác (hình luật) và chỉ dụ của nhà vua về việc mua bán, tranh tụng ruộng đất (hộ luật). Người phạm tội, trừ khi phạm tội thập ác, được lấy tiền chuộc tội. Do ảnh hưởng Phật Giáo, pháp luật triều Lý mang nhiều tính chất đặc biệt như: tôn trọng nhân quyền, áp dụng chính sách cải quả đối với tội nhân ...
Dưới triều Trần, có bộ Quốc Triều Hình Luật quy định ba hạng tội nặng: tội đồn, khắc chữ vào trán và bắt cày cáy công điền; tội lưu, đày đến châu Ác Thủy (Quảng Yên); tội tử, bị chém. Pháp luật triều Trần nghiêm khắc hơn cả.
Dưới triều Lê, có bộ Luật Hồng Đức, mang nhiều tính chất dân tộc, phù hợp với điều kiện xã hội và tôn giáo, tiến bộ về mặt kỹ thuật pháp lý, nên ảnh hưởng còn tồn tại đến ngày nay.
Đa số luật pháp ở thời kỳ này chú trọng nhiều về hình luật, ít chú trọng về hộ luật và dân luật.
Về mặt chính trị xã hội, Hồ Quý Ly đã có những công cuộc cách mạng quốc gia tiến bộ và đi trước thời đại.
Về phong tục, dân Đại Việt đã có những cung cách trang nhã trong đời sống, các tập quán, lễ nghi thuần hậu.
Về tín ngưỡng, đã có một sự hòa đồng kỳ diệu giữa ba tôn giáo Nhọ Phật, Lão và sự hòa đồng này có ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống tinh thần của dân Việt.
Khi đất nước độc lập thì văn tự cũng được hình thành một lối riêng, chữ nôm là một sáng tạo của dân tộc để diễn đạt tư tưởng của mình. Vì vậy, có triều đại muốn bảo vệ nền độc lập tư tưởng đã khuyến khích sử dụng văn nôm như triều Hồ, tây Sơn.
Đặc sắc của nền văn minh Đại Việt, về mặt văn học là đã phát triển song song hai bộ phận: văn học truyền khẩu và văn học thành văn. Hiếm thấy trên nền văn học thế giới một nền văn học truyền khẩu như của Đại Việt, rất phong phú ở nhiều phương diện: truyện cổ tích, truyện cười, tục ngữ, ca dao. Về văn học thành văn, có thể nói đó là một nền văn học bác học bởi đã tập trung nhiều khối óc lớn và bao gồm các ngành như Lê Quý Đôn (văn học), Ngô Sĩ Liên (Sử Học), những ngọn bút tài hoa (văn chương) như Đặng Trần Côn (Tác giả Chinh Phụ Ngâm Khúc), Đoàn Thị Điểm (dịch giả chinh Phụ Ngâm), Nguyễn Gia Thiều (tác giả Cung Oán Ngâm Khúc). Các thể văn được sáng tạo thích hợp với ngôn ngữ Việt giàu âm điệu là thể lục bát và song thất lục bát.
Về các ngành nghệ thuật, tranh mộc bản Việt là một loại tranh dân gian mang tính chất dân tộc độc đáo, cũng như một số nhạc khí dân tộc, tiêu biểu là đàn Bầu (một dây).
Trong kịch nghệ, có loại hát chèo mang nhiều ưu điểm và tính chất dân tộc rõ rệt.
Về khoa học, dù là một nền khoa học kinh nghiệm, Đại Việt cũng đã có những nhân tài về y học như Tuệ Tĩnh với khoa y dược dân tộc, Hải Thượng Lãn Ông với khoa đông y. Về thiên văn như Trần Nguyên Hãn soạn sách nghiên cứu thiên văn và lịch pháp. Đặng Lộ chế ra dụng cụ xét nghiệm thiên tượng. Hồ Nguyên Trừng chế ra súng hỏa mai.
Qua đến thế kỷ 19, xã hội Việt Nam lại biến chuyển và khai sinh một nền văn minh mới, văn minh Việt Nam, trong buổi đầu mang tinh thần văn hiến Đại Nam, đến thời Pháp thuộc tính chất Việt Nam mới nẩy sinh.
Ở thời kỳ này, công cuộc khẩn hoang lập ấp và dinh điền là một chính sách kinh tế mới, cũng như nội thương và ngoại thương là hai mặt phát triển của ngành thương mãi quốc gia.
Các công cuộc mở mang lớn được thực hiện: đường sá, cầu cống, kênh ngòi, kho vựa, thành phố, thương cảng ...
Vua Gia Long là người đã có ý thức canh tân xứ sở theo đường lối Tây Phương. Dưới triều vua này đã có một quân lực hùnhg mạnh nhất ở bán đảo Đông Đương. Chính vua Gia Long đã thấy trước được Nhật Bản 60 năm là khoa hoc. Tây Phương có thể giúp cho nước nhà chóng phát triển và ông đã dùng những người Tây Phương ở bên cạnh như là những cố vấn kỹ thuật. Ông cũng đã khuyên ngăn con là vua Minh Mạng nên hậu đãi người Âu (đặc biệt là Pháp), song không cho họ một đặc quyền gì, nhưng đáng tiếc là vua này không nghe lời khuyên ấy, cũng như các vua về sau, nhất là Tự Đức không lưu ý đến các đề nghị cải cách quốc gia của Nguyễn Trường Tộ với những ý kiến sáng suốt là hoài bão, là ý chí, niềm tin của người Việt thiết tha với tiền đồ xứ sở và là tấm gương muôn đời cho hậu thế. Tinh thần Nguyễn Trường Tộ về sau, trong thời kỳ Pháp thuộc đã biểu lộ ở các hoạt động của phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục (duy tân) và rộng ra ở tất cả mọi hoạt động cách mạng của các chí sĩ yêu nước.
Một biện pháp cải tạo xã hội tốt đẹp ở thời kỳ này là vấn đề cứu tế xã hội để chống nghèo đói và bệnh tật của các tầng lớp nhân dân.
Đặc điểm của thời kỳ văn hiến Đại Nam là kho tàng văn học, chữ Hán, chữ Nôm và ở thời kỳ Pháp Thuộc là chữ quốc ngữ. Đáng lưu ý là Phan Huy Chú với bộ Lịch Triều Hiến Chương, một bộ bách khoa toàn thư có giá trị lớn. Nguyễn Du, một thiên tài văn chương đã để lại nhiều tác phẩm tuyệt diệu cả hai mặt hán và Nôm, với truyện Kiều là một áng văn bất hủ. Một Hồ Xuân Hương với thi tài độc đáo. Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát với những bài hát nổi danh. hát nói là một thể thơ được sáng tạo từ thể lục bát và song thất lục bát và xuất hiện ở thời kỳ này.
Trong thời Pháp thuộc, ý thức xây dựng quốc văn phát triển, nâng cao Việt ngữ thành một công cụ truyền đạt tư tưởng một cách dề dàng hơn các loại chữ ở thời trước.
Sự đóng góp của các nhóm Nam Phong Tạp Chí, Đông Dương Tạp Chí và đáng kể nhất là nhóm Tự Lực Văn Đoàn ở hai mặt truyền bá văn học và tư tưởng xã hội tiến bộ.
Thơ văn yêu nước và cách mạng xuất hiện ở thời kỳ này là lợi khí đấu tranh chống Pháp, phản ảnh ý chí bất khuất kiên cường của dân tộc Việt và làm giàu kho tàng văn học.
Về mặt nghệ thuật, loại tranh sơn mài và tranh lụa (cũng như tranh mộc bản cổ truyền) là những sáng tạo riêng biệt của người Việt.
Các công trình kiến trúc lăng tẩm và Đại Nội ở Huế, cũng như một số đồ sành sứ mệnh danh là "đồ sứ mem lam Huế" (Blue de Hue - đồ ký kiểu ở Tàu để vua chúa đời Nguyễn dùng) đã làm ngạc nhiên các du khách nước ngoài.
Các loại ca nhạc cung đình cũng như ca nhạc dân gian mà điển hình là các điệu hò hát, đã để lại những âm hưởng bất diệt trong lòng người Việt muôn thuở.
Nói chung, những gì tồn tại đến ngày nay hay đã mất mát một phần hoặc hoàn toàn mà những vang bóng vẫn còn trong lòng người, đều là những nét tiêu biểu của nền văn minh Việt Nam ở ba thời kỳ nói trên.
4, Những nét tiêu biểu của nền văn hóa Việt Nam
Đời sống gia đình: Trong xã hội truyền thống Việt Nam trước đây, một gia đình điển hình thường bao gồm ba, bốn thế hệ cùng sống chung. Với tâm lý “nhiều con, nhiều lộc” nên mọi gia đình mong muốn “con đàn, cháu đống”. Do ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo và quan niệm phong kiến “trọng nam, khinh nữ”, con trai luôn được coi là trụ cột trong gia đình và có tiếng nói quyết định. Còn phụ nữ phải tuân thủ lễ giáo phong kiến ‘tam tòng, tứ đức” (Tam tòng: lúc nhỏ sống dựa vào cha, lớn lên lấy chồng phải tuân thủ theo chồng, chồng chết phải ở vậy sống theo con trai; Tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh).
Kể từ khi đất nước thống nhất, Nhà nước Việt Nam đã thông qua nhiều văn bản luật, điển hình là Luật Hôn nhân và Gia đình để điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình cho bình đẳng hơn. Bên cạnh đó, nhiều biện pháp tuyên truyền vận động cũng được thực hiện nhằm thay đổi nhận thức lạc hậu của người dân, bảo đảm bình đẳng giới, đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của phụ nữ.
Ngày nay, quy mô một gia đình hiện đại Việt Nam có xu hướng thu hẹp lại, chỉ 2-3 thế hệ. Số con của một cặp vợ chồng là hai (chiếm đa số), tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” không nặng nề như xưa và dần dần bị loại bỏ. Truyền thống “kính trên, nhường dưới” có từ xa xưa vẫn luôn được duy trì và phát huy trong mỗi gia đình Việt Nam.
Trang phục : Hầu hết các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam đều có trang phục riêng mang đậm bản sắc truyền thống của dân tộc mình. Nhìn chung đa phần trang phục của các dân tộc được trang trí hoa văn có màu sắc rực rỡ, tương phản: đen - trắng, đen - đỏ, xanh - đỏ hoặc xanh - trắng và được dệt từ sợi có nguồn gốc tự nhiên như sợi gai, tơ tằm, tơ dứa, sợi bông..., vừa đẹp, vừa bền mà thoáng mát, phù hợp khí hậu nhiệt đới.
Thường phục truyền thống của người Việt đối với đàn ông là quần trắng, áo nâu, đầu vấn khăn, chân đi guốc hoặc dép. Bộ lễ phục thêm áo dài đen bằng vải hoặc the, đầu đội khăn xếp. Đối với phụ nữ, trang phục cầu kỳ và rực rỡ hơn: váy đen, yếm trắng, áo tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ, thắt lưng hoa lý. Bộ lễ phục gồm ba chiếc áo, ngoài cùng là chiếc áo tứ thân bằng the thâm hay màu nâu non, kế đến là chiếc áo màu mỡ gà và trong cùng là chiếc áo màu cánh sen. Khi mặc, cả ba chiếc áo chỉ cài khuy bên sườn, phần từ ngực đến cổ lật chéo để lộ ba màu áo. Trong cùng là chiếc yếm thắm. Đầu đội nón trông rất duyên dáng và kín đáo. Cách ăn mặc truyền thống này đã mang đến cho người phụ nữ Việt một vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng, thướt tha.
Ngày nay, trang phục truyền thống của người Việt đã thay đổi. Bộ âu phục thay thế cho bộ đồ truyền thống của đàn ông. Chiếc áo dài khởi phát từ thời chúa Nguyễn Phúc Khoát ngày càng được cải tiến và hoàn thiện hơn, được phụ nữ Việt Nam ưa thích mặc vào nhiều dịp lễ hội quan trọng trong năm. Chiếc áo dài hiện tại có thân tương đối bó sát thân người, hai tà áo thả xuống ngang nửa ống chân, làm cho thân thể người phụ nữ hiện lên những đường cong mềm mại, dịu dàng nhưng kín đáo, phù hợp với vóc dáng nhỏ nhắn của người phụ nữ Việt Nam.
Hiện nay, việc giao lưu giữa các nền văn hóa trên thế giới ngày càng mở rộng, trang phục của người Việt nam ngày càng phong phú và mang tính hòa nhập và thời trang hơn, nhất là trong giới trẻ ở thành phố.
Một số lễ hội lớn của Việt Nam: Sinh hoạt lễ hội là loại hình văn hóa dân gian đặc trưng tại mọi miền trên đất nước Việt Nam. Trong tâm lý và tình cảm, lễ hội mang lại sự thanh thản cho con người Việt Nam, gạt đi những lo toan thường nhật, tăng thêm sự gắn bó và tình yêu đối với thiên nhiên, đất nước. Là một nước nông nghiệp, nên hầu hết các lễ hội diễn ra vào lúc “nông nhàn” - mùa xuân và mùa thu, trong đó có một số lễ hội chung cho mọi người trên khắp đất nước như Tết Nguyên Đán, Rằm Tháng Bẩy, Rằm Tháng Tám, Giỗ tổ Hùng Vương...
Tết Nguyên Đán (thường vào cuối tháng Một, đầu tháng Hai hàng năm): Là Lễ hội lớn nhất trong các Lễ hội truyền thống Việt Nam. Đây là dịp cả gia đình xum họp, cùng nhau thưởng thức những món ăn truyền thống, đi thăm hỏi và chúc tụng những người trong gia tộc, bạn bè, đồng nghiệp. Trong quan niệm của mọi người, Tết là sự kết thúc của năm cũ - kết thúc của những điều xấu, rủi ro để bước sang năm mới với những điều tốt lành sẽ đến. Giao thừa là lúc thiêng liêng nhất; mọi gia đình đều lấy khoảnh khắc này để đặt lễ, thắp hương thờ cúng thần linh, tổ tiên. Ngoài việc cúng giao thừa, còn nhiều tập tục vẫn được duy trì vào dịp Tết như xông đất, hái lộc, mừng tuổi.
Lễ Vu Lan (Rằm tháng Bảy âm lịch): Lễ Vu Lan là một đại lễ báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã khuất - một tập tục đáng quý, đáng trọng của người Việt, thể hiện tấm lòng ”ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Theo Phật giáo, ngày này các âm hồn được lên trần hưởng lộc. Hầu hết các gia đình đều làm cỗ cúng gia tiên; cúng xong đốt vàng mã cho vong hồn dùng. Rằm tháng Bảy cũng là ngày xá tội vong nhân mà gọi nôm na theo dân gian là ngày cúng chúng sinh. Lễ vật gồm có cháo, bỏng gạo, bánh đa, bánh kẹo, hoa quả… để cúng cho những cô hồn lang thang, không người hương khói.
Tết Trung Thu (Rằm tháng Tám âm lịch): Tết Trung thu, còn gọi là ”Tết trông Trăng”, là ngày Tết dành cho trẻ em. Trẻ em rất mong đợi được đón Tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi như đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, bánh nướng, bánh dẻo...Tối đêm Rằm, hầu hết các gia đình có trẻ em đều có mâm cỗ trông trăng. Cỗ trung thu chủ yếu là bánh kẹo và hoa quả được tạo thành các con giống bày trên mâm cỗ. Đêm Rằm, không khí thật náo nhiệt bởi tiếng vui đùa, múa hát của trẻ nhỏ, kết hợp với ánh sáng của trăng, đèn và nến... Một số nơi còn tổ chức các trò chơi như rước đèn, múa Lân, múa Sư tử, múa Rồng... cho các em nhỏ vui chơi.
Giỗ tổ Hùng Vương: Ngày 10/3 âm lịch hàng năm là ngày Giỗ tổ Vua Hùng. Ngày Giỗ tổ được tổ chức tại khắp mọi miền đất nước Việt Nam và cả ở nhiều nước trên thế giới, nơi có đông cộng đồng người Việt Nam sinh sống. Nơi tổ chức Lễ Giỗ tổ chính thức là Phú Thọ (kinh đô của Nhà nước đầu tiên của Việt Nam – Văn Lang), nơi đặt Đền thờ 18 vị Vua Hùng. Những lễ phẩm có tính chất tục lệ của Việt Nam được làm ra và dâng cúng vào dịp này gồm đèn, hương, rượu, trầu cau, nước lã, bánh trưng, bánh dày. Từ năm 2007, Giỗ tổ Hùng Vương chính thức được công nhận là ngày Quốc lễ của Việt Nam.
Văn học: Việt Nam có một nền văn học phát triển khá sớm mang bản sắc riêng. Là một quốc gia có nhiều dân tộc sinh sống, mỗi dân tộc đều có nền văn học riêng của mình, tất cả tạo nên một nền văn học Việt Nam đa bản sắc.
Văn học cổ: bao gồm dòng văn học dân gian, văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Dòng văn học dân gian xuất hiện trong quá trình lao động sản xuất, xây dựng và đấu tranh ngay từ thuở sơ khai, chủ yếu là truyền miệng dưới nhiều hình thức khác nhau như truyện kể, thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện thơ, tục ngữ, ca dao, câu đố, vè... được truyền từ đời này sang đời khác. Dòng văn học chữ Hán: Chữ Hán bắt đầu du nhập vào Việt Nam từ đầu thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Sau khi giành được độc lập dân tộc (năm 938), các triều đại phong kiến Việt Nam, với tinh thần tự lực, tự cường đã phát triển nền văn học Việt Nam và sử dụng chữ Hán để ghi lại. Nhiều áng văn thơ bất hủ bằng chữ Hán còn lưu lại đến ngày nay như Bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt, Hịch Tướng Sỹ của Trần Hưng Đạo; Đại Việt Sử ký của Lê Văn Hưu. Dòng văn học chữ Nôm: Chữ Nôm được Việt hóa từ chữ Hán. Văn học chữ Nôm xuất hiện từ thế kỷ VIII, được phát triển đỉnh cao vào thế kỷ XVIII và tiếp tục phát triển tới đầu thế kỷ XX. Nhiều tác phẩm nổi tiếng