Đề tài Sự biến đổi gia đình nông thôn ven đô thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre trong bối cảnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa

Thành phố Bến Tre được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Bến Tre, với diện tích tự nhiên 6.742,11 ha và 143.639 nhân khẩu, 16 đơn vị hành chính cấp xã, phường gồm: các phường 1, 2,3,4,5,6,7,8, Phú Khương, Phú Tân và các xã Sơn Đông, Bình Phú, Phú Hưng, Mỹ Thạnh An, Nhơn Thạnh, Phú Nhuận. Địa giới hành chính thành phố Bến Tre: Phía Bắc giáp huyện Châu Thành, Đông và Nam giáp huyện Giồng Trôm, Tây giáp sông Hàm Luông. Thực hiện quan sát tại khu phố 1, 3 phường Phú Tân khá thuận lợi.

doc27 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2101 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự biến đổi gia đình nông thôn ven đô thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre trong bối cảnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC KHXH & NV TPHCM CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Khoa Xã hội học Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Thành phố Hồ Chí Minh ngày 18-04-2010 BÁO CÁO TỔNG KẾT THỰC TẬP CÔNG CỤ QUAN SÁT Giới thiệu chung Thành viên nhóm STT Tên MSSV SĐT Ghi chú 1 Đào Thị Thùy Dung 0669018 0978890635 2 Đoàn Thị Bé Em 0669029 01689797010 Thư ký 3 Trương Hồng Hải 0669034 0977508852 4 Cao Thị Thanh Hiền 0669044 0904779288 5 Lê Thị Thúy Huỳnh 0669051 0985046678 6 Nguyễn Hồng Như Khuê 0669060 01693889886 Nhóm trưởng Địa điểm thực tập Khu Phố : I và III – Phường Phú Tân – Thành phố Bến Tre – Tỉnh Bến Tre Thời gian Từ ngày 26-3-2010 đến ngày 29-03-2010 Đề tài nghiên cứu ĐỀ TÀI: SỰ BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH NÔNG THÔN VEN ĐÔ THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA E Mục tiêu nghiên cứu: Tìm hiểu thực trạng biến đổi gia đình nông thôn ven đô thành phố Bến Tre, chỉ ra những yếu tố tác động đến sự biến đổi gia đình trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế xã hội tại khu vực nông thôn dưới sự tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. E Đối tượng nghiên cứu: Những biến đổi của gia đình nông thôn ven đô ở thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre trong bối cảnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa. E Khách thể nghiên cứu: Cán bộ viên chức và nhân dân tại địa phương phường Phú Tân, thành phố Bến Tre. E Nội dung nghiên cứu: – Tìm hiểu những điều kiện (kinh tế- xã hội, chính trị- xã hội, văn hóa- xã hội) tác động tới sự biến đổi gia đình nông thôn tại các vùng đô thị hóa và những vùng lân cận của thành phố Bến Tre. – Sự chuyển đổi mô hình hôn nhân trong quan niệm và hành vi của các nhóm cơ cấu – xã hội ở nông thôn ven đô thành phố Bến Tre trong quá trình đô thị hóa. – Sự biến đổi về cơ cấu và chức năng gia đình nông thôn ven đô Nam Bộ trước ảnh hưởng của đô thị hóa. – Vấn đề bình đẳng giới trong gia đình ven đô. – Vòng đời gia đình nông thôn ven đô. – Những vấn đề trong đời sống gia đình ven đô. Nội dung báo cáo Tình hình chung của địa bàn nghiên cứu Thành phố Bến Tre được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Bến Tre, với diện tích tự nhiên 6.742,11 ha và 143.639 nhân khẩu, 16 đơn vị hành chính cấp xã, phường gồm: các phường 1, 2,3,4,5,6,7,8, Phú Khương, Phú Tân và các xã Sơn Đông, Bình Phú, Phú Hưng, Mỹ Thạnh An, Nhơn Thạnh, Phú Nhuận. Địa giới hành chính thành phố Bến Tre: Phía Bắc giáp huyện Châu Thành, Đông và Nam giáp huyện Giồng Trôm, Tây giáp sông Hàm Luông. Thực hiện quan sát tại khu phố 1, 3 phường Phú Tân khá thuận lợi. Tiến trình làm việc Ngày 26-03-2010 Di chuyển xuống thực địa và ổn định chỗ nghỉ ngơi. Ngày 27-03-2010 Các thành viên xuống thực địa để tiến hành công việc với sự hỗ trợ của Bác tổ trưởng dẫn đường và nhóm trưởng. Ngày hôm nay nhóm hoàn thành được 5 mẫu nghiên cứu hộ gia đình và 1 quan sát cộng đồng. Ngày 28-03-2010 Tiếp tục cùng nhóm đi nghiên cứu thực địa và cá nhân tiến hành quan sát cộng đồng. Nhóm đã hoàn thành được 4 mẫu nghiên cứu hộ gia đình và 1 quan sát cộng đồng. Ngày 29-03-2010 Một bạn tiến hành quan sát 1 mẫu hộ gia đình còn lại và các thành viên khác quan sát bổ sung cộng đồng. Tối cùng ngày lớp đã có buổi họp tổng kết thực tập với giáo viên hướng dẫn, đồng thời các nhóm trưởng báo cáo tổng kết sơ bộ quá trình tiến hành công việc tại thực địa. Ngày 30-03-2010 Cả lớp đã hoàn thành quá trình thực tập tại thực địa, mọi người cảm thấy rất vui và với sự đồng ý của giáo viên phụ trách, cả lớp đã tổ chức đi chơi tua du lịch Cồn Phụng rất vui và hạnh phúc. Cả lớp về lại thành phố lúc 18h30, kết thúc chuyến thực tập với kết quả khá tốt và bình an. Những điểm báo cáo chính Thuận lợi Lúc đầu có phần khó khăn do người dân tỏ ra không được tin tưởng nhưng sau khi được bác tổ trưởng giới thiệu, người dân đã cộng tác và tỏ ra rất thân thiện. Lớp đã được đi thực hành môn Phương pháp nghiên cứu Xã hội học từ năm 3 nên việc phân chia nhóm rất thuận tiện, công tác chuẩn bị khá tốt. Tập huấn chia theo nhóm công cụ nên có phần tập trung hơn. Phát huy được những thuận lợi nên công tác chuẩn bị được diễn ra tốt hơn so với lần đầu đi thực hành năm 3. Công tác chuẩn bị khá kỹ lưỡng: Ngày 10/03/2010, có buổi tập huấn với Cô Phạm Tú Anh từ 8h sáng tới 12h trưa với nội dung trao đổi, thảo luận phương pháp quan sát trước khi xuống Bến Tre. Ngày 21/03/2010, tập huấn công cụ với các cô giáo trong Khoa. Những ngày tiếp theo, cả lớp tranh thủ tìm tài liệu đọc và tổng quan tài liệu. Sau đó, các bạn thuộc nhóm điều phối, dẫn đường đã đọc số phòng và sơ lược kế hoạch của đợt thực tập. Điều kiện ăn ở và đi lại rất thuận tiện, phương tiện di chuyển đến địa điểm thực tập chính bằng Taxi mất 06 phút, do đó không mất nhiều thời gian cho việc di chuyển. Việc liên lạc với giáo viên hướng dẫn thực địa tốt, chủ yếu là bằng điện thoại, ngoài ra còn có nhiều lần gặp trực tiếp trên thực địa cũng như qua các buổi họp tổng kết cuối ngày để trao đổi những thuận lợi, khó khăn và tìm ra hướng giải quyết cho công việc. Sự cộng tác và hỗ trợ của chính quyền địa phương khá tốt, đặc biệt là Bác tổ trưởng dẫn đường khá nhiệt tình, do vậy công việc tiến triển tương đối tốt. Người dân ở đây mặc dù lúc đầu tỏ ra khá cẩn trọng nhưng sau khi tiếp xúc, giới thiệu, họ đã tỏ ra nhiệt tình và chân thành giúp đỡ trong quá trình thực tập. Các bạn trong nhóm đoàn kết và có thái độ cộng tác tích cực với nhóm trưởng trong công việc, các bạn dám dấn thân cho nhiệm vụ của mình (do đặc điểm của công việc phải ở lại nhà dân khá lâu, thường là từ 09h00 đến 17h00, do vậy mà cũng đơn giản tí nào) điều này làm cho em cảm thấy dễ dàng hơn trong việc triển khai công việc của mình đến các thành viên. Khó khăn Công việc liên lạc với chính quyền địa phương lúc đầu gặp chút ít khó khăn, chủ yếu do họ chưa hiểu rõ được đặc tính công việc nên tỏ ra thái độ hợp tác không được tốt lắm, có người bày tỏ thái độ phản đối ra mặt (có phần hơi thái quá). Thời gian làm việc quá gấp rút, thời tiết nóng nực gây áp lực và mặt tâm lý và ảnh hưởng đến sức khỏe của các bạn. Nhưng sự phối hợp tốt, cũng như sự phân công công việc khá tốt, các bạn thuộc nhóm bảng hỏi đã có thể linh động hỗ trợ nhau. Không có phương tiện di chuyển nên việc đi lại rất tốn chi phí. Nếu được mong các bạn G10 lần sau tiền trạm kĩ hơn, lơi ích kinh tế hơn. Việc chọn mẫu đôi lúc gặp trục chặc (không đúng mẫu, mẫu đi vắng.v.v…) nên phải mất nhiều thời gian để liên lạc. Đây là một trong những khó khăn lớn nhất tại thực địa. Một số mẫu không muốn hợp tác nên phải tiến hành đổi mẫu, thông tin do người dân cung cấp đôi lúc 2 chiều nên khó khăn trong việc xác định chính xác được thông tin. Thời gian quan sát lâu nên khó khăn cho quan sát viên cũng như đối tượng nghiên cứu (tỏ ra không thích, không hợp tác). Đôi lúc còn bị nghi ngờ là lừa đảo. Hướng giải quyết các khó khăn tại thực địa Các thành viên linh động, đóng góp tiền để đi taxi di chuyển đến thực địa để giảm bớt chi phí. Trao đổi với điều phối chính, nhóm chọn mẫu dẫn đường để chọn lại mẫu mới khi gặp phải trường hợp mẫu không đạt yêu cầu. Liên lạc, trao đổi trực tiếp hay gián tiếp qua điện thoại với giáo viên hướng dẫn công cụ tại thực địa cô Phạm Thị Tú Anh để giải quyết vấn đề xảy ra trên thực địa (công việc này do nhóm trưởng thực hiện). Thảo luận với các thành viên trong nhóm để tìm hướng giải quyết cho vấn đề gặp phải. Linh động trong phân chia công việc, ví dụ như bạn nào không có mẫu gia đình để quan sát thì được chuyển qua công việc quan sát cộng đồng. Mọi người đều cố gắng để chung tay giải quyết vấn đề. Những phát hiện chính Tuy cùng nằm trên một địa bàn những giữa khu phố I và khu phố III có sự khác nhau, qua quan sát chúng tôi nhận thấy được đời sống của bà con ở khu phố III có phần nhỉnh hơn so với khu phố I. Quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh nhưng cục bộ, không đồng đều, như ở bên ngoài trục đường chính phát triển rất mạnh mẽ nhưng đi sâu vào trong tổ chừng 200 mét thì nhà cửa và đường xá khá thô sơ, đường đất rải sỏi nhiều, không gian sống vẫn chưa được thông thoáng.v.v… Đã có sự thay đổi về lối sống: Người dân tham gia lao động vào các xí nghiệp, buôn bán và dịch vụ nhiều hơn, bữa cơm gia đình đầy đủ chất dinh dưỡng hơn. Quan hệ trong gia đình thoải mái, vấn đề bình đẳng giới được chú trọng tốt hơn, không có biểu hiện của thái độ gia trưởng. Biểu hiện của lối sống đô thị rõ nét hơn đó là, người dân ít có qua lại trò chuyện với nhau, ngay tại chợ thì cũng lo mua sắm rồi về, khác với những phiên chợ của làng quê nông thôn. Kiểm soát con cái chặt chẽ hơn, đưa đón đi học hàng ngày, có lẽ người dân sợ lối sống đô thị hiện đại dễ cám dỗ con của họ. Đồng thời, cũng có những biểu hiện tôn trọng tự do cá nhân của con, đó là cho con ngủ phòng riêng một mình khi mới hơn một tuổi. Đây là một dấu hiệu cho thấy lối sống, quan niệm sống hiện đại đã bắt đầu thâm nhập vào cuộc sống của người dân. Một bộ phận lớn người dân vẫn chưa thích nghi với lối sống đô thị, vẫn còn mang nặng tính truyền thống như: các ngôi mộ vẫn còn chôn ngay cạnh nhà ở, nhà cửa vẫn mang tính nông thôn nhiều, v.v… Một số tổng hợp thêm từ tư liệu sẵn có Phường Phú Tân chủ yếu làm sản xuất nông nghiệp (tập trung chủ yếu ở 3 khu phố 1,2,4), kinh doanh dịch vụ nhỏ lẻ, một bộ phận nhỏ là sản xuất tiểu thủ công nghiệp và cán bộ công nhân viên chức. Toàn phường có 14 cơ quan, đơn vị cấp tỉnh, Thành phố đóng trên địa bàn trong đó có một trường THCS, một trường THPT, 2 trường dạy nghề, một trung tâm giới thiệu việc làm, địa bàn phường có 3 cơ sở thờ tự tôn giáo (1 đình, 1 nhà tu, 1 miếu), một chợ khu vực, 1 bến xe khách liên tỉnh. -Tình hình kinh tế: đời sống kinh tế tương đối ổn định và phát triển, diện tích sản xuất nông nghiệp toàn phường 286,41 ha chủ yếu trồng lúa, tổng diện tích giao trồng lúa trong năm là 216 ha năng suất bình quân đạt 4,5 tấn/ha, diện tích trồng rau màu tiếp tục được mở rộng đem lại hiệu quả kinh tế cao. Toàn phường có 18,65 ha trồng cây xanh, thu thập bình quân đạt 63 triệu đồng/ha/năm. Hội nông dân đã mạnh dạn chuyển đổi cây trồng vật nuôi, áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất nhằm tăng năng suất, tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm trên thị trường từng bước tăng thu nhập ổn định cho cuộc sống. Về kinh doanh mua bán: hiện nay trên địa bàn phường có một chợ khu vực tập trung trên 100 hộ tiểu thương nhỏ lẻ, các cơ sở kinh doanh dịch vụ khác chủ yếu trên các trục lộ chính với ngành nghề đa dạng. Về sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phường có trên 20 cơ sở quy mô vừa và nhỏ góp phần giải quyết việc làm ổn định cho trên 300 lao động tại địa phương. Tình hình sản xuất kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn phường ổn định, phát triển theo hướng tích cực, có đầu tư tăng dần quy mô, mở rộng ngành nghề, đến nay toàn phường có: 667/1623 hộ kinh doanh thương mại- dịch vụ, 20 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Hằng năm địa phương đã giới thiệu việc làm, học nghề cho từ 200-350 người bước vào tuổi lao động. Thu nhập bình quân đầu người năm 2009 đạt 18 triệu đồng/năm. -Về văn hóa- tinh thần: Toàn phường có 11/14 cơ quan văn hóa, 3/3 cơ sở thờ tự văn hóa và 1 chợ văn hóa. Có 4 khu phố có tụ điểm văn hóa gia đình, hoạt động thể dục thể thao được nhân dân hưởng ứng tích cực với 3 sân bóng đá mini, 1 nhà luyện tập cầu lông, một cơ sở thể dục thẫm mĩ tư nhân, ngoài ra còn có một sân bóng chuyền do trường THCS quản lý phục vụ nhu cầu luyện tập TDTT của học sinh, thanh thiếu niên trên địa bàn. Hiện nay hội trường văn hóa của phường đang mượn tạm hội trường văn hóa của trường THCS Vĩnh Phúc, chưa có cụm pano kiên cố và cổng chào. Gia đình sức khỏe: có 1298/1623 hộ đạt gia đình sức khỏe, đạt tỷ lệ 80%. Có 4/4 khu phố đạt chuẩn “ Làng văn hóa sức khỏe”. Về xây dựng gia đình thể thao theo phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” có 689/1623 gia đình luyện tập thể dục thể thao được công nhận gia đình thể thao đạt 42,45%. Hộ an toàn về an ninh trật tự và cam kết thực hiện an toàn giao thông cos1623/1623 hộ dăng ký thực hiện đạt tỷ lệ 100%, 4/4 khu phố an toàn về ANTT, phường Phú Tân được công nhận là phường an toàn năm 2009. Gia đình hiếu học: vận động nhân dân thực hiện 3 tiêu chuẩn giâ đình hiếu học, đến nay có 657/1623 hộ gia đình hiếu học đạt 40,48%. Xây dựng gia đình văn hóa: tính đến nay có 1472/1623 hộ được cấp bằng GĐVH đạt 90,69%. Việc cưới, việc tang, lễ hội tại cộng đồng dân cư tổ chức đúng ý nghĩa, tiết kiệm, không có hũ tục lạc hậu. -Về mặt xã hội: Trong năm 2009 địa bàn phường không có đối tượng mại dâm mới phát sinh, phường được công nhận có chuyển hóa về ma túy, mại dâm trên địa bàn. Hiện phường có 19 đối tượng ma túy được theo dõi quản lý. Công tác giáo dục thường xuyên vận động gia đình có trẻ em trong độ tuổi đi học đưa trẻ em đến trường hàng năm vận động trẻ vào lớp 1 đạt 100%, không có trẻ bỏ học bậc tiểu học, tỉ lệ bỏ học bậc THCS dưới 1%, được trên công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục Tiểu học, THCS và phổ cập THPT hoạt động của Hội khuyến học, HĐGD được củng cố, kịp thời giúp đỡ cho các em học sinh nghèo gặp khó khân có nguy cơ bỏ học được trở lại lớp, động viên khen thưởng học sinh giỏi. Về chăm sóc sức khỏe cộng đồng và phòng bệnh theo các chương trình y tế quốc gia được tuyên truyền rộng khắp làm cho toàn dân có ý thức tự giác phòng bệnh, phòng dịch, bảo vệ môi trường. Quan tâm kiểm tra về vệ sinh okiểm tra 17 cơ sở đạt tỷ lệ 88%, không có trường hợp vi phạm và ngộ đọc thực phẩm xảy ra. Trong năm 2009, trẻ em được tiêm chủng mở rộng đạt 100%, trẻ em suy duy dưỡng năm 2009 là 47 em tỷ lệ 9,072%; Hộ sử dụng muối IOT đạt tỷ lệ 76%. Các bà mẹ mang thai khám định kì và tiêm ngừa thai phụ 100%. Tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS được thực hiện liên tục, ý thức bảo vệ của mỗi người đối vơi bản thân và gia đình có chuyển biến rõ rệt, trong năm không có trường hợp nhiễm bệnh phát sinh, hiện phường đang quản lý 10 đối tượng. Công tác quản lý và phòng chống các loại bệnh được triển khai thực hiện tốt, các chỉ tiêu của chưng trình y tế quốc gia đều đạt và vượt so vơi yêu cầu, trên địa bàn không có trường hợp sinh con thứ ba. Những chia sẻ và kiến nghị Cần có sự liên lạc và trình bày công việc rõ ràng hơn trước khi triển khai công việc tại thực địa. Nắm rõ địa bàn nghiên cứu (địa chỉ nhà, đối tượng cần cho mẫu.v.v…) Các thành viên chủ chốt cần có sự liên lạc và phối hợp với nhau chặt chẽ hơn, tránh tình trạng chồng chéo công việc. Chuẩn bị tốt hơn về kỹ năng và kiến thức để có kết quả tốt trong quá trình khảo sát. Thời gian công việc nên phân bổ hợp lý hơn, không quá gấp rút. Thay mặt các thành viên Nhóm trưởng Nguyễn Hồng Như Khuê cõd QUAN SÁT CỘNG ĐỒNG: ĐẠI HỌC KHXH & NV TPHCM CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Khoa Xã hội học Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BÁO CÁO QUAN SÁT Sinh viên thực hiện quan sát : Nguyễn Hồng Như Khuê Cao Thị Thanh Hiền Lớp học : Xã hội học - K12A Điện thoại liên lạc của sinh viên: 0169 3899 886 A. Địa điểm quan sát: Khu Phố : I và III Phường : Phú Tân Thành phố : Bến Tre Tỉnh: : Tỉnh Bến Tre B. Thời điểm quan sát: Ngày quan sát : Từ ngày 27/03/2010 đến 29/03/2010 Thời điểm bắt đầu quan sát: 08h00 Thời điểm kết thúc quan sát: 17h00 C. Đối tượng quan sát: Cộng đồng dân cư D. Báo cáo thông tin về cộng đồng Giới thiệu chung Việc quan sát cộng đồng được tiến hành liên tục trong 3 ngày, từ 27/03/2010 đến 29/03/2010. Sản phẩm thu được khá khả quan, do đặc điểm của địa bàn nghiên cứu là ở 2 khu phố, gồm khu phố I và khu phố III thuộc phường Phú Tân, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre, do vậy mà với sự đồng ý của giáo viên hướng dẫn công cụ tại thực địa, chúng tôi đã tổng kết thống nhất thành một biên bản báo cáo này. Kính mong nhận được sự chia sẻ đóng góp từ quý thầy cô phụ trách và các bạn có ý quan tâm. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn. Nội dung báo cáo chính Vị trí địa lý Địa bàn nghiên cứu là phường Phú Tân, tính Bến Tre, thành phố Bến Tre. Đây là một thành phố mới được hình thành, do vậy mà đang có sự phát triển và biến đổi mạnh mẽ nên rất thuận lợi để tiến hành nghiên cứu. Đây là một thành phố trẻ, phát triển thực sự năng động từ khi có sự ra đời của cây cầu Rạch Miễu lịch sử ngày 20/08/2008, sau nhiều năm chờ đợi và mong mỏi người dân xứ dừa thì hai bờ sông Tiền đã được nối liền trong niềm vui vô tận của không biết bao nhiêu người dân. Cũng chính từ đây, Bến Tre đã có một bước phát triển mạnh mẽ mà khiến cho những ai đã từng đặt chân đến đây vài năm trước phải ngỡ ngàng. Cơ cấu tổ chức gồm có tổ dân phố - khu phố - phường – thành phố. Mỗi tổ dân phố có một người tổ trưởng và một người tổ phó. Những đặc điểm chung của địa bàn Thời tiết cũng khá oi bức vào ban ngày, nhưng cũng tương đối dễ chịu, đa số là nắng nhiều. Đất chủ yếu là đất cát, rất thuận lợi cho việc trồng và phát triển dừa, điều này đã được minh chứng khi nơi đây được xem là nơi có đặc sản dừa và kẹo dừa nổi tiếng, đây cũng là một trong những yếu đáp ứng công việc lao động cho người dân. Trên địa bàn có nhiều kênh rạch, những đồng ruộng lớn thuận lời cho việc chăn nuôi và trồng trọt. Dọc trục đường chính của thành phố (Đại lộ Đồng Khởi) phát triển rất mạnh mẽ với nhiều dịch vụ cũng như là buôn bán, nhà của san sát nhau. Đường hẻm chủ yếu là đá sỏi nhưng cũng khá sạch sẽ, một số tổ có điều kiện thì đường chính được đổ bê tông sạch sẽ. Nhà dân ở khá gần nhau, cách 3-4 mét, chủ yếu là nhà cấp 4 và nhà gỗ, nhà lầu cấp 1 và 2 cũng có nhưng không nhiều lắm. Nhận định Với những yếu tố thuận lợi về tự nhiên cũng như vật chất, đặc biệt là sự có mặt của cây cầu Rạch Miễu đã nối liền ốc đảo Bến Tre với cả nước thì sự đô thị hóa ở đây diễn ra rất mạnh mẽ, bằng chứng là tỉnh Bến Tre giờ đây đã được công nhận là thành phố. Từ đây đã tạo ra rất nhiều sự biến chuyển về vật chất cũng như tinh, những điều này đã và đang góp phần để làm nên sự phồn thịnh của thành phố trong tương lai không xa. Những yếu tố chính quan sát được Nhìn chung thì đời sống của nhân dân tại khu phố III có phần tốt hơn bên khu phố I. Tuy nhiên, mỗi khu phố có những điểm nổi bật khác biệt riêng, các cơ quan hành chính của phường chủ yếu nằm bên khu phố I, bên khu phố III thì các hoạt động buôn bán, dịch vụ (nhà hàng khách sạn, câu lạc bộ thẩm mỹ,.v.v…). Công ty tư nhân nằm xen lẫn với nhà nhân, chủ yếu là sản xuất kẹo dừa. Vẫn có nhiều các ngôi mộ nằm sát bên nhà dân, số lượng khá nhiều, chủ yếu là ngôi mộ của dòng họ, nhưng có một vài ngôi mộ được chôn cách đây không lâu. Dân cư làm hai nghề chính là công nhân và thợ hồ, lao động nữ chủ yếu làm trong các xí nghiệp sản xuất kẹo dừa, nam làm thợ hồ. Một số lớn còn lại làm vườn và hoa màu, chủ yếu là trồng lúa. Nhận định Cuộc sống nhiều biến chuyển, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao xong vẫn mang đậm chất nông dân. Một bộ phận người dân vẫn chưa chú ý đến đời sống đô thị nhiều, vẫn giữ những yếu tố truyền thống nhiều như: việc chôn cất người chết ngay sát nhà ở. Ngoài quốc lộ 60 ( dọc đại lộ Đồng Khởi) hai bên mặt tiền phát triển vô cùng mạnh mẽ và sầm uất. Các cơ quan hành chính của phường chủ yếu được đặt ở đây bên khu phố I. Uỷ ban nhân dân phường và công an phường nằm cạnh nhau ngay giữa trung tâm phường, đây là nơi làm việc tạm thời, nới mới đang được xấy dựng cạnh bên với quy mô khá lớn và hiện đại, trạm ý tế cũng đang được xây dựng mới sát bên ủy ban nhân dân phường. Việc xây mới này là do phường mới tách ra từ phường Phú Khương nên cơ sở vật chất chưa kịp xây dựng. Nhận định Việc tách phường đã cho thấy thành phố đang phát triển mạnh mẽ, với những yêu cầu và đòi hỏi cấp bách, nhằm để quản lý và chăm lo tốt cho đời sống nhân ngày một thêm đông, chính quyền thành phố đã có những bước đi mạnh mẽ nhằm đáp ứng tốt đời sống cho nhân dân. Đây thực sự là một dấu hiệu rất đáng mừng. Một số nhận định giữa 2 khu phố Bên khu phố I, đường đất rải sỏi là chủ yếu, bên trong các tổ dân phố có nhiều kênh, mương. Người dân chủ yếu trồng lúa và hoa màu, nhà chủ yếu là nhà gỗ và nhà cấp 4. Bên khu phố III thì đường bê tông là chủ yếu, nhà dân cũng khang trang và hiện đại hơn bên khu phố