Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện nay đã và đang tác động trực tiếp đến mọi mặt của đời sống xã hội, mở ra một thời kỳ phát triển mới khi nhân loại bước vào thế kỷ XXI. Để tiến kịp và hòa nhập với nền giáo dục trên thế giới, đồng thời phục vụ kịp thời cho sự chuyển đổi nền kinh tế của đất nước từ quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường và mở cửa với sự quản lý của nhà nước từ nhiều năm nay, cả nước đang tiến hành công cuộc đổi mới nền giáo dục trên các lĩnh vực: “Phải xác định lại mục tiêu,thiết kế lại chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo”[12]. Thông qua đó nhằm tạo ra “Những con người thích ứng với nền kinh tế thị trường cạnh tranh và hợp tác, có năng lực giải quyết được những vấn đề thường gặp, tự tìm được việc làm”[106] và có những đóng góp có ích cho đất nước.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 4-Ban chấp hành (BCH) Trung ương Đảng khóa VII chỉ rõ “Đổi mới phương pháp ở tất cả các cấp học và bậc học, kết hợp tốt học với hành, học tập với lao động sản xuất, thực nghiệm với nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã hội. Áp dụng những phương pháp giảng dạy hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh những năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”[12]
Để thực hiện mục tiêu chung của giáo dục là phải đào tạo con người “Tự chủ, năng động, sáng tạo” và nâng cao hiệu quả của việc đổi mới phương pháp dạy học thì một trong những tiếp cận hiện đại phù hợp với xu thế chung của thế giới là ứng dụng những thành tựu của tin học vào trong giáo dục. Tuy nhiên việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học không hoàn toàn giống với các lĩnh vực khác, nó có những nét đặc thù riêng bởi lẽ đối tượng tác động của nó chính là con người. Ứng dụng CNTT không chỉ đơn thuần là sự hỗ trợ mang tính kỹ thuật, mà quan trọng hơn là ứng dụng để dạy cho học sinh (HS) cách tư duy, suy luận logic và cách học để bồi dưỡng năng lực tự học, tự tìm ra tri thức và làm chủ tri thức trong điều kiện “bùng nổ thông tin tri thức” như hiện nay thì không còn đòi hỏi gì cấp bách hơn là mỗi HS phải được trang bị, được tiến hành cách học, PP tự học hữu hiệu. Tự học, tự đào tạo để có thể học tập thường xuyên, học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Đúng như nguyên tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười đã nói “Tự học, tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời của mỗi con người trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay và mai sau. Đó là truyền thống quý báu của người Việt Nam hiện nay và dân tộc Việt Nam”
Ở phổ thông hiện nay, chương trình SGK đã được thiết kế lại với tinh thần đổi mới PPDH theo hướng tăng cường hoạt động của HS, đơn giản về nội dung để có một bước tiến bộ về PP, tăng cường sử dụng các biện pháp tích cực như: Xây dựng tình huống có vấn đề, dùng phiếu học tập để tổ chức hoạt động nhóm nhằm phát huy tính tích cực của HS. Tuy nhiên việc dạy học nhiều nội dung khó trong SGK vẫn còn nhiều khó khăn, nhiều kiến thức trừu tượng về cơ chế, các quy trình chưa được giải thích cụ thể. Đặc biệt môn CN10 là môn học gồm nhiều kiến thức sâu rộng mang tính ứng dụng cao, nội dung kiến thức chương 4 “Doanh nghiệp và lựa chọn kinh doanh” trình bày rất khái quát và xúc tích, nếu giáo viên không có PTDH và PPDH phù hợp để tổ chức hoạt động học tập thì học sinh khó tiếp thu được bài học. Vì vậy GV cần đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của HS. Việc đổi mới được thực hiện theo hướng sử dụng phương pháp tự học có hướng dẫn. Một trong những phương pháp khả thi là dạy học chương trình hóa (DHCTH).
106 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3151 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sử dụng phần mềm Lectora thiết kế bài học chương 4 môn CN10 theo phương pháp dạy học chương trình hóa để rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM VÀ NGOẠI NGỮ
----------------------------
BÁO CÁO
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
SỬ DỤNG PHẦN MỀM LECTORA THIẾT KẾ BÀI HỌC CHƯƠNG 4, MÔN CÔNG NGHỆ 10 THEO PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHƯƠNG TRÌNH HOÁ ĐỂ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH
Người hướng dẫn : ThS. Nguyễn Tất Thắng
Người thực hiện : Hoàng Thị Duyên - SPKT 50
Địa điểm thực hiện đề tài: Trường THPT Cao Bá Quát
Gia Lâm - Hà Nội
HÀ NỘI, 5/2009
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo, Thạc sỹ Nguyễn Tất Thắng, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.Nhờ sự hướng dẫn tận tình của thầy em đã hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp của mình.
Em xin gửi lời cảm ơn trân thành đến ban chủ nhiệm khoa, các thầy cô giáo trong khoa Sư phạm và Ngoại ngữ trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô trong bộ môn Tâm lý và Phương pháp giáo dục; Thầy giáo Nguyễn Văn Hiền khoa Sinh – KTNN và cô Phạm Thị Lan khoa CNTT trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội, cô Dương Thị Hoàn GV Sinh – CN10 trường THPT Nguyễn Gia Thiều – Hà Nội, các thầy cô giáo cùng các em học sinh lớp 10A3, 10A2 của trường THPT Cao Bá Quát – Gia Lâm – Hà Nội và THPT Phụ Dực - huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, cộng tác để em hoàn thành tốt đề tài của mình.
Đồng thời em xin gửi lời biết ơn tới gia đình, người thân, và bạn bè, những người đã luôn động viên, giúp đỡ em trong quá trình làm khoá luận tốt nghiệp này.
Em xin trân thành cảm ơn!
Hà nội, tháng 5 năm 2009
Sinh viên
Hoàng Thị Duyên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Kí hiệu viết tắt
Đọc là
1
CN 10
Công nghệ 10
2
CNTT
Công nghệ thông tin
3
CTH
Chương trình hóa
4
GV
Giáo viên
5
HS
Học sinh
7
PPDH
Phương pháp dạy học
8
PPDH CTH
Phương pháp dạy học chương trình hóa
9
PTDH
Phương tiện dạy học
10
THPT
Trung học phổ thông
11
TNKQ - MCQ
Trắc nghiệm khách quan đa phương án
12
SGK
Sách giáo khoa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Bảng so sánh DH CTH với các hình thức bà học trên sách và bài học trên máy 27
Bảng 2.2: Thực trạng sử dụng các PT trong giảng dạy ở một số trường THPT 41
Bảng2.3: Thái độ của HS đối với môn CN10 42
Bảng 2.4: Tình hình học tập môn CN10 của HS 43
Bảng 3.1: Bảng thống kê các câu hỏi xây dựng các bài theo PPDH CTH 47
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
Hình 2.1: Mối quan hệ giữa dạy - tự học 12
Hình 2.2: Sơ đồ tích cực hóa động cơ (Lý luận dạy học đại học – TS Nguyễn Văn Cường, NXBHN năm 2005) 17
Hình 2.3: Sử dụng bài dạy theo PPDH CTH 22
Hình 2.4: Sơ đồ cấu trúc nội dung bài học CTH 23
Hình 2. 6: Màn hình tạo câu hỏi 34
Hình 2.8: Màn hình nhập số phương án lựa chọn 35
Hình 2.9: Màn hình nhập câu trả lời 35
Hình2. 10: Màn hình liên kết câu hỏi 36
Hình 2.11: Sơ đồ quy trình sử dụng phần mềm Lectora để thiết kế bài học theo PPDH CTH. 39
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện nay đã và đang tác động trực tiếp đến mọi mặt của đời sống xã hội, mở ra một thời kỳ phát triển mới khi nhân loại bước vào thế kỷ XXI. Để tiến kịp và hòa nhập với nền giáo dục trên thế giới, đồng thời phục vụ kịp thời cho sự chuyển đổi nền kinh tế của đất nước từ quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường và mở cửa với sự quản lý của nhà nước từ nhiều năm nay, cả nước đang tiến hành công cuộc đổi mới nền giáo dục trên các lĩnh vực: “Phải xác định lại mục tiêu,thiết kế lại chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo”[12]. Thông qua đó nhằm tạo ra “Những con người thích ứng với nền kinh tế thị trường cạnh tranh và hợp tác, có năng lực giải quyết được những vấn đề thường gặp, tự tìm được việc làm”[106] và có những đóng góp có ích cho đất nước.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 4-Ban chấp hành (BCH) Trung ương Đảng khóa VII chỉ rõ “Đổi mới phương pháp ở tất cả các cấp học và bậc học, kết hợp tốt học với hành, học tập với lao động sản xuất, thực nghiệm với nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã hội. Áp dụng những phương pháp giảng dạy hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh những năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”[12]
Để thực hiện mục tiêu chung của giáo dục là phải đào tạo con người “Tự chủ, năng động, sáng tạo” và nâng cao hiệu quả của việc đổi mới phương pháp dạy học thì một trong những tiếp cận hiện đại phù hợp với xu thế chung của thế giới là ứng dụng những thành tựu của tin học vào trong giáo dục. Tuy nhiên việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học không hoàn toàn giống với các lĩnh vực khác, nó có những nét đặc thù riêng bởi lẽ đối tượng tác động của nó chính là con người. Ứng dụng CNTT không chỉ đơn thuần là sự hỗ trợ mang tính kỹ thuật, mà quan trọng hơn là ứng dụng để dạy cho học sinh (HS) cách tư duy, suy luận logic và cách học để bồi dưỡng năng lực tự học, tự tìm ra tri thức và làm chủ tri thức trong điều kiện “bùng nổ thông tin tri thức” như hiện nay thì không còn đòi hỏi gì cấp bách hơn là mỗi HS phải được trang bị, được tiến hành cách học, PP tự học hữu hiệu. Tự học, tự đào tạo để có thể học tập thường xuyên, học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Đúng như nguyên tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười đã nói “Tự học, tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời của mỗi con người trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay và mai sau. Đó là truyền thống quý báu của người Việt Nam hiện nay và dân tộc Việt Nam”
Ở phổ thông hiện nay, chương trình SGK đã được thiết kế lại với tinh thần đổi mới PPDH theo hướng tăng cường hoạt động của HS, đơn giản về nội dung để có một bước tiến bộ về PP, tăng cường sử dụng các biện pháp tích cực như: Xây dựng tình huống có vấn đề, dùng phiếu học tập để tổ chức hoạt động nhóm…nhằm phát huy tính tích cực của HS. Tuy nhiên việc dạy học nhiều nội dung khó trong SGK vẫn còn nhiều khó khăn, nhiều kiến thức trừu tượng về cơ chế, các quy trình chưa được giải thích cụ thể. Đặc biệt môn CN10 là môn học gồm nhiều kiến thức sâu rộng mang tính ứng dụng cao, nội dung kiến thức chương 4 “Doanh nghiệp và lựa chọn kinh doanh” trình bày rất khái quát và xúc tích, nếu giáo viên không có PTDH và PPDH phù hợp để tổ chức hoạt động học tập thì học sinh khó tiếp thu được bài học. Vì vậy GV cần đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của HS. Việc đổi mới được thực hiện theo hướng sử dụng phương pháp tự học có hướng dẫn. Một trong những phương pháp khả thi là dạy học chương trình hóa (DHCTH).
Xuất phát từ các lý do trên cùng với sự hướng dẫn của thầy giáo Ths.Nguyễn Tất Thắng, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Sử dụng phần mềm Lectora thiết kế bài học chương 4 môn CN10 theo phương pháp dạy học chương trình hóa để rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Sử dụng phần mềm lectora thiết kế bài giảng chương 4 môn CN10 nhằm rèn luyện khả năng tự học của HS, góp phần nâng cao chất lượng dạy học và ứng dụng rộng rãi phần mềm tin học trong dạy học.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Quy trình xây dựng bài học chương 4 CN10 theo PPDH CTH bằng phần mềm Lectora để rèn luyện kĩ năng tự học cho HS.
3.2. Khách thể nghiên cứu:
- Giáo viên dạy lớp 10 và HS lớp 10 THPT.
- Chuyên gia đã nghiên cứu và sử dụng phần mềm Lectora.
4. Giả thuyết khoa học
Sử dụng phần mềm Lectora thiết kế bài giảng chương 4 môn CN10 sẽ nâng cao kết quả học tập, rèn luyện kỹ năng tự học và phát huy tính tự học của học sinh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc sử dụng phần mềm Lectora trong dạy học chương trình hóa, cơ sở lý thuyết về tự học.
- Tìm hiểu thực trạng việc sử dụng phần mềm tin học nói chung và phần mềm Lectora nói riêng trong dạy học môn CN10 ở trường THPT.
- Phân tích cấu trúc nội dung chương 4, môn CN10 và sử dụng phần mềm Lectora để thiết kế các bài trong chương 4, môn CN10 theo PPDH chương trình hóa.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu lý thuyết về tự học và khả năng tự học, các tài liệu liên quan đến PPDHCTH, phần mềm Lectora.
- Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, nhà nước, các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới PPDH, PTDH.
- Nghiên cứu chương trình, SGK môn CN10, các tài liệu chuyên môn có liên quan đến chương 4: Doanh nghiệp và lựa chọn lĩnh vực kinh doanh.
6.2. Phương pháp điều tra
- Thiết kế và sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu tình hình sử dụng phần mềm tin học trong dạy học môn CN10 ở trường THPT.
6.3. Phương pháp tham vấn chuyên gia
- Xin ý kiến chuyên gia nhận xét, đánh giá bài học chương 4, môn CN10 thiết kế bằng phần mềm Lectora từ đó chỉnh sửa nhằm nâng cao hiệu quả cho bài học.
6.4. Phương pháp xử lý số liệu
- Qua phân tích ý kiến giáo viên về tình hình sử dụng phần mềm dạy học nói chung và trong thiết kế bài học chương 4, môn CN10 nói riêng.
- Qua phân tích điều tra HS để điều tra tình hình học tập môn CN10 của HS.
- Tính tần số số người cùng lựa chọn 1 phương án qua công thức:
(%)
Trong đó:
+F
:
Là tần số (%)
+ N
:
Là tổng số phiếu điều tra
+ n
:
Là số người cùng lựa chọn 1 phương án
PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình sử dụng phần mềm tin học nói chung và phần mềm Lectora nói riêng
Sự ra đời của máy tính điện tử đã mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên con người sáng tạo công cụ tự động thay thế cho những hoạt động trí óc của bản thân mình. Đó là một bước ngoặt trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Trong những năm gần đây, máy tính điện tử đã trở thành công cụ đắc lực trong phát triển kinh tế, nghiên cứu khoa học. Nhiều nước phát triển như Anh, Đức, Nhật,… đã xác định được việc ứng dụng CNTT trong nhà trường là một phần rất quan trọng trong giáo dục. Vì vậy họ đã xây dựng các trung tâm máy tính điện tử cho các trường học, các thư viện,…Việc sử dụng tin học vào các trường phổ thông trên thế giới hiện nay đang hình thành theo hai xu hướng: Đưa tin học vào nội dung dạy học; Sử dụng máy vi tính như PTDH. Trong đó hướng thứ 2 được chú ý hơn ở nhiều nước trên thế giới.
Tại Hungari, Bộ giáo dục và Đào tạo đã đưa tin học vào nhà trường từ năm 1981 với tư cách là môn học mới và triển khai nghiên cứu làm PTDH.
Tại Úc, tổ chức NSCU (National Software Cordination Unit) đã thành lập từ năm 1985 cung cấp chương trình giáo dục máy tính điện tử vào các trường trung học. Các phần mền dạy học đã được sử dụng gồm: giải toán, mô phỏng, trò chơi, chuẩn đoán, thông báo, đô thị, kiểm tra, …Một số môn học đã có phần mềm dạy học như ngoại ngữ, nghệ thuật, thương mại, kinh tế, địa lý, toán,..
Ở Việt Nam, trong khoảng 30 năm trở lại đây chúng ta đã bắt đầu sử dụng máy tính điện tử thể hiện ở chỗ Chính phủ đã ra Nghị quyết số 173-CP (1975) và 245-CP(1976) về tăng cường ứng dụng toán học và máy tính điện tử trong cả nước. Viện Công nghệ tin học được thành lập và có những đề án nghiên cứu ứng dụng CNTT đưa vào nhà trường và khi tin học trở thành một môn học bắt buộc trong nhà trường thì mục tiêu “Ứng dụng máy tính điện tử làm công cụ dạy học” là không thể thiếu. Hướng nghiên cứu “Sử dụng máy tính điện tử làm công cụ trợ giúp quá trình dạy học” gắn liền với việc nghiên cứu và thiết kế các hệ phần mềm dạy học có nội dung sát hợp với chương trình các môn học ở phổ thông, dễ sử dụng đồng thời kích thích trí thông minh và gây hứng thú học tập. Đó cũng là các vấn đề khó khăn với hoàn cảnh Việt Nam. Tuy vậy đến nay đã có một số đề tài được thực hiện ở một số trường đại học, các ngành sư phạm, nhiều hội thảo về ứng dụng CNTT nói chung và phần mềm Lectora nói riêng vào dạy học đã được tổ chức. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu của các thầy cô giáo trong ngành sư phạm như:
- Mai Văn Trinh (2001): “Nâng cao hiệu quả dạy học vật lý ở trường THPT nhờ việc sử dụng máy vi tính và các PTDH hiện đại”, Luận án tiến sĩ.
- Tạ Thị Thảo (2006): “Ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ dạy học phấn II “Sinh học tế bào”-Sinh học 10 THPT”, Luận văn thạc sỹ Khoa học giáo dục.
- Ths Nguyễn Văn Hiền và CN Hoàng Thị Ngọc Hà (2005): Sử dụng phần mền Lectora thiết kế một số bài học sinh học theo phương pháp dạy học chương trình hóa (ĐHSP Hà Nội).
- Nguyễn Thị Mai Lan (2006): Tài liệu xây dựng và triển khai đào tạo trực tuyến - hướng dẫn sử dụng Lectora. Bộ GD & ĐT, Hà Nội.
Mỗi phần mềm có tính năng ưu việt riêng nhưng mục đích cuối cùng vẫn là hoàn thiện quá trình dạy học. Sau một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu, chúng tôi thấy phần mềm Trivantis Lectora của Tim “The Milk Man” Loudermilk (www.Lectora.com) là phù hợp trong hỗ trợ tổ chức DHCTH.
Lectora do Trivantis cung cấp, đây là một gói phần mềm cho phép một cá nhân hay một nhóm có thể dễ dàng tạo ra các nội dung, các tác động lẫn nhau và được phát triển như là một website hoặc là ứng dụng chạy độc lập từ CD-ROM. Lectora hỗ trợ một cách rộng rãi những kiểu phương tiện (media) thông dụng như là văn bản, hình ảnh, âm thanh, phim, hoạt hình. Ngoài ra có cả những công nghệ được ưa chuộng trên internet như là: Shockwave, Flash, HTML, Java, Java Script, ASP.NET,...,tạo tài liệu hỗ trợ E – learning, tạo E – book, thiết kế các bài trình bày giống Power Point. Lectora giúp thiết kế nhanh chóng các chương trình học tập tương tác với những phương tiện trợ giúp theo từng bước. Tất cả các dạng tài liệu trên đều hỗ trợ khả năng thiết lập được các loại bài tập. Đặc biệt khả năng tạo liên kết giữa các câu hỏi trong DHCTH là những tính năng không có ở những phần mềm hiện đang được sử dụng trong giảng dạy ở các trường.
Lectora làm cho việc xây dựng và xuất bản các chủ đề một cách dễ dàng. Bạn có thể tập trung vào việc tổ chức nội dung và sáng tạo nội dung bài học. Trong khi phần mềm sẽ tự động hoàn thiện những phần soạn chương trình phức tạp và những nhiệm vụ xuất bản cho những chức năng và sự định hướng trong chủ đề của bạn.
Sử dụng Lectora để xây dựng chủ đề hiệu quả công việc của bạn sẽ rất lớn và tiết kiệm thời gian, kinh phí. Với việc sử dụng lectora thì bạn sẽ vượt qua được giới hạn về kinh phí và việc thiết kế trước đó, cho phép bạn ngày càng hứng thú với việc phát triển nội dung.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, CNTT đang có xu hướng được sử dụng vào dạy học một cách phổ biến nhưng thực tế phần mềm Lectora là một phần mềm tin học khá mới và sự ứng dụng phần Lectora vào dạy học là chưa nhiều mà chỉ dừng lại ở bước thiết kế giáo án dạy học. Vì vậy chưa phát huy hết khả năng tư duy, tự học của HS.
1.2. Lịch sử nghiên cứu về dạy học chương trình hóa
PPDH CTH được nhà tâm lý học người Mỹ là Clauder và Skinner đưa ra đầu tiên trong những năm 50 của thế kỷ XX. Đã có nhiều tranh cãi khi đưa ra phương pháp này vì lúc đó PPDH phổ biến là phương pháp truyền thống dựa trên ngôn ngữ nói và viết. Đó là việc dạy học mang tính truyền thụ trong đó thầy giáo không những là người tổ chức chỉ đạo mà còn là nguồn gốc cơ bản và tin cậy của kiến thức. Phương pháp này xuất hiện đã đánh một đòn mạnh mẽ vào lý luận dạy học lúc bấy giờ bởi vì phương pháp này biết áp dụng rộng rãi các phương tiện nghe nhìn hiện đại. Như vậy ở đây nảy sinh rất nhiều quan điểm về DHCTH, tuy nhiên quan điểm DHCTH là phương pháp tổ chức dạy học với phương tiện dạy học hiện đại đã được các nhà tâm lý học và lý luận dạy học công nhận. Vì theo quan điểm này DHCTH bao gồm các cách thức làm việc của GV và HS, trong đó GV là người soạn thảo chương tình, còn HS là người được điều và tự điều khiển bản thân để lĩnh hội kiến thức dưới sự hỗ trợ của công nghệ dạy học (W. Okon, 1971, trang 178).
Vào những năm 60 tiếp bước quan điểm và ý tưởng của Clauder và Skinner, một số nhà lý luận dạy học Tây Âu và Đông Âu đã nghiên cứu vấn đề này. Chính trong thời gian đó DHCTH đã công phá mạnh mẽ vào lý luận dạy học và nó được đánh giá cao trong giới khoa học. Điều này đã đẩy nhanh sự phát triển của DHCTH trước hết là mặt lý luận. Nhưng cũng có thời gian dài phương pháp DHCTH không được áp dụng thậm trí còn bị bỏ quên. Có thể kể ra một vài nguyên nhân chính sau đây:
- Thứ nhất: Việc xây dựng các bài chương trình là việc mất nhiều công sức và thực chất là do một vài nhóm thực hiện.
- Thứ hai: Các máy dạy học (phương tiện dạy học) hỗ trợ một số bài giảng ở giai đoạn này còn thử nghiệm.
- Thứ ba: Phương tiện máy tính, một công cụ thực sự hữu dụng trong việc xây dựng chương trình, không được phổ biến.
Tuy nhiên đến những năm 80 của thế kỷ XX cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các trường từ đại học đến tiểu học ở Mỹ, Tây Âu và các nước Đông Âu đã áp dụng DHCTH với sự hỗ trợ của máy tính điện tử, máy dạy học và các phương tiện nghe nhìn khác.
Trải qua một quá trình phát triển lâu dài về lý luận cũng như thực tiễn dạy học. Ngày nay PPDH này ngày càng được hoàn thiện. Đứng trước những tiến bộ về PPDH cũng như khoa học kỹ thuật thì nền giáo dục Việt Nam đã kế thừa và áp dụng phù hợp với tình hình giáo dục cũng như nền kinh tế đất nước. PPDH tích cực nói chung và phương pháp DHCTH nói riêng được đề cập ở Việt Nam vào những năm 70 của thế kỷ XX. Lúc đó phương pháp DHCTH được biết nhiều trên phương diện lý luận. Nhưng vào những năm đầu của thế kỷ XXI được áp dụng khá phổ biến (về lý luận cũng như thực tiễn) ở một số cấp học. Có rất nhiều nghiên cứu về PPDH này trong dạy học như: DHCTH với sự hỗ trợ của phần mền Specket thông qua môn toán; DHCTH dưới sự hỗ trợ của phần mềm Microsoft PowerPoint thông qua môn tập đọc,…
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1. Tự học và kỹ năng tự học
2.1.1.1. Khái niệm tự học
Học là cố chiếm lĩnh lấy những kiến thức và kỹ năng mà loài người đã biết (Quá trình dạy - tự học, nhà xuất bản giáo dục, tr84)
Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (Quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp,…) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó khăn, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi, …) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình. (Quá trình dạy - tự học, nhà xuất bản giáo dục, tr59).
Như vậy, quá trình tự học là “một sự biến đổi bản thân mình, trở nên có thêm giá trị, bằng nỗ lực của chính mình để chiếm lĩnh những giá trị mới lấy từ bên ngoài”, là “một hành trình nội tại, được cắm mốc bởi kiến thức, phương pháp tư duy và sự thực hiện tự phê bình để tự hiểu bản thân mình”. Có thể nói tự học của bản thân mình là chìa khóa cho cánh cửa thành công trong mọi hoạt động của con người. Một người muốn thành công trong cuộc sống thì điều quan trọng nhất là phải tự nhận biết được những giá trị của bản thân (năng lực và thái độ, kĩ năng, kiến thức), xác định được những giá trị cần thiết cho hoạt động của mình, biết cách chiếm lĩnh những giá trị đó, tức là biết cách tự học.
Một sự thực hiển nhiên là bất cứ một trường học nào cũng không cung cấp cho học sinh đủ tri thức để có thể sống và hoạt động suốt cuộc đời. Để thực hiện một hoạt động đạt hiệu quả, không phải lúc nào cũng chỉ có tái hiển tri thức sẵn có, sử dụng những kĩ năng sẵn có, mà còn cần những tri thức mới, kĩ năng mới, phẩm chất mới. Điều này đòi hỏi HS phải chiếm lĩnh những nội dung mới đó, phải tiến hành hoạt động tự học.
Quá trình sống và hoạt động của con người là quá trình con người dần dần bước lên những bậc thang mới của sự hiểu biết. Bước đi này dễ hay khó, cao hay thấp phụ thuộc vào khả năng tự học của mỗi con người. Khả năng này có thể và cần được rèn luyện ngay khi ngồi trên ghế nhà trường phổ thông. Muốn vậy, quá trình dạy học phải bao hàm cả dạy tự học, phải biến quá trình dạy học thành quá trình tự học, quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
2.1.1.2. Vai trò của tự học với HS
Tự học là “tự động học tập”. Tự học khi có thầy và cả khi không có thầy bên cạnh (học với sách). Người học phải biết tự xác định mục, tự lập kế hoạch, tự đánh giá việc học tập của bản thân mình.
Trước sự phát triển không ngừng của xã hội, một kỹ năng không thể thiếu của người lao động là kỹ năng tự học. Chỉ có nỗ lực học tập và rè