Lịch sử là một môn khoa học xã hội. Lịch sử là những sự kiện, hiện
tượng đã xảy ra trong quá khứ xã hội của loài người, nó tồn tại độc lập, khách
quan với ý muốn con người. Do đặc trưng môn Lịch sử khác với các môn học
khác trong chương trình dạy học ở phổ thông đó là: học sinh không được trực
tiếp chứng kiến sự kiện, vì lịch sử đó không lặp lại, không được biểu diễn trong
phòng thí nghiệm. Hơn nữa, vấn đề nhận thức môn Lịch sử cũng khác so với các
môn học khác: nó có nhận thức chung của quy luật loài người từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng và thực tiễn. Đồng thời nhận thức lịch sử cũng có
sắc thái riêng: nhận thức các sự kiện lịch sử phải tuân theo logic sự kiện, sự thật
khách quan chứ không phải tùy theo trí tưởng tượng của con người. Mỗi tác
động của giáo viên đều ảnh hưởng đến học sinh. Vì vậy, giảng dạy môn lịch sử
mỗi giáo viên phải dạy thế nào đó để tác động vào đúng quy luật nhận thức, giúp
học sinh lĩnh hội được đầy đủ những kiến thức mà mình truyền tải, từ đó biết
đánh giá, nhận định cũng như chủ động lĩnh hội kiến thức trên lớp.
22 trang |
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT
Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 1
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử là một môn khoa học xã hội. Lịch sử là những sự kiện, hiện
tượng đã xảy ra trong quá khứ xã hội của loài người, nó tồn tại độc lập, khách
quan với ý muốn con người. Do đặc trưng môn Lịch sử khác với các môn học
khác trong chương trình dạy học ở phổ thông đó là: học sinh không được trực
tiếp chứng kiến sự kiện, vì lịch sử đó không lặp lại, không được biểu diễn trong
phòng thí nghiệm. Hơn nữa, vấn đề nhận thức môn Lịch sử cũng khác so với các
môn học khác: nó có nhận thức chung của quy luật loài người từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng và thực tiễn. Đồng thời nhận thức lịch sử cũng có
sắc thái riêng: nhận thức các sự kiện lịch sử phải tuân theo logic sự kiện, sự thật
khách quan chứ không phải tùy theo trí tưởng tượng của con người. Mỗi tác
động của giáo viên đều ảnh hưởng đến học sinh. Vì vậy, giảng dạy môn lịch sử
mỗi giáo viên phải dạy thế nào đó để tác động vào đúng quy luật nhận thức, giúp
học sinh lĩnh hội được đầy đủ những kiến thức mà mình truyền tải, từ đó biết
đánh giá, nhận định cũng như chủ động lĩnh hội kiến thức trên lớp.
Nhưng một thực tế cho thấy, từ lâu dạy học theo kiểu “đọc – chép” được
coi là một phương pháp dạy học để truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử
dụng phổ biến ở nhiều trường trong cả nước. Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng
đã có nhiều cuộc hội thảo và cũng đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học tích cực
hơn nhưng hiện tại không ít giáo viên vẫn sử dụng cách dạy học theo kiểu
“đọc – chép”
Phải nói rằng trong một tiết dạy, cũng có lúc giáo viên cần phải đọc cho
học sinh chép như môn chính tả...ở bậc Tiểu học, đọc hoặc ghi lên bảng các
công thức toán học, bảng cửu chương, một sự kiện lịch sử, một số yếu tố địa lý,
đoạn thơ, các khái niệm...ở bậc Trung học, điều này không có nghĩa là giáo viên
đã sử dụng phương pháp “đọc – chép”.
Cũng phải khẳng định rằng, trong giáo học pháp, chưa bao giờ trong
trường học có phương pháp dạy học mang tên “đọc – chép”. Do đó, “đọc” thế
nào và học sinh “chép” ra sao mới là quan trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ
trương chống việc dạy học “chủ yếu qua đọc chép – nhìn chép” nghĩa là chống
việc chỉ đọc chép, truyền thụ kiến thức một chiều trong cả một tiết lên lớp.
Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khuôn trong dạy học, dễ
có tư tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng tạo
trong việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng
học sinh trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt mức tối ưu. Người
học theo cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều,
không động não suy nghĩ, không biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, trở nên thui
chột về tư duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Hơn nữa, đã dạy theo kiểu “đọc – chép” thì đề thi phải ra theo kiểu học
thuộc. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi, lại chép những điều ấy
Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT
Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 2
vào bài làm, không có khả năng sáng tạo, học sinh hiểu bài một cách máy móc
không sáng tạo, không thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc không dám thể
hiện “cái riêng” của mình. Bài dạy học đọc – chép tất yếu phải được tổ chức
theo phương thức diễn dịch, do đó tiết dạy “đọc – chép” sẽ nhàm chán và mang
tính áp đặt.
Việc giáo viên sử dụng cách dạy học theo kiểu đọc – chép, có thể kể ra
một số nguyên nhân sau:
Do một số bài học của chương trình có lượng kiến thức nhiều, trong một
tiết học chỉ có 45 phút, mà đã mất 10 đến 15 phút ổn định tổ chức, kiểm tra bài
cũ, dặn dò học, làm bài tập ở nhàNhư vậy, chỉ còn khoảng 30 phút để giảng
bài mới nên giáo viên chọn cách “đọc – chép”.
Học sinh hiện nay khả năng tự ghi bài là rất chậm, rất hạn chế, thụ động
trong học tập đặc biệt là khối bổ túc văn hóa nên cũng có thầy cô chọn cách đọc
bài, học trò chép bài. Học sinh về nhà chỉ cần học thuộc nội dung đã được ghi,
khi kiểm tra bài chỉ cần đọc đúng, ghi đúng là được điểm cao
Cũng còn một số giáo viên không chịu khó đầu tư cho việc thiết kế bài
dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh mình đang phụ trách, sợ mất
sức, cứ sẵn giáo án mẫu đọc cho học sinh chép, khi cần thỉnh thoảng mới dừng
lại ghi vài chữ lên bảng. Như thế, vừa không sợ sai kiến thức cơ bản, lại vừa
không tốn sức.
Trang thiết bị và các phòng học chức năng không đủ hoặc không có để
đáp ứng nhu cầu dạy học theo hướng đổi mới, hiện đại hóa, học sinh không có
nhiều điều kiện để thực hành hoặc học theo phương pháp trực quan sinh động.
Khắc phục tình trạng đọc – chép là một yêu cầu cần thiết để nâng cao
chất lượng dạy học đối với tất cả các môn học. Đó là một nhiệm vụ vô cùng khó
khăn phức tạp trong điều kiện hiện nay của nhiều trường. Thực hiện tốt việc
chống dạy học theo kiểu “đọc – chép” là cả một quá trình lâu dài với sự cố gắng
của nhiều đối tượng khác nhau trong đó sự tận tâm của thầy cô giáo là điều hết
sức quan trọng mới có thể có kết quả.
Dạy theo kiểu “đọc cái có sẵn cho học sinh chép vào vở” cứ lặp đi lặp lại
nhiều năm, khiến công việc của các nhà giáo trở nên nhàm chán, không có động
lực để đổi mới. Còn với học sinh, dẫu biết rằng phải chép bài của thầy đọc từ
sách giáo khoa, cái mà các em có thể tự đọc – là một sự miễn cưỡng. Nhưng biết
làm sao, khi thầy yêu cầu trả bài phải đúng, thậm chí đúng nguyên văn những lời
thầy đọc.
Đã có những bài thi ngây ngô đến mức khó tin, bởi thiếu phương pháp tư
duy, rập khuôn máy móc do việc học lệ thuộc hoàn toàn vào thầy, còn thầy thì lệ
thuộc sách giáo khoa. Cách dạy và học này còn tiếp tay cho nạn quay cóp, gian
lận trong thi cử, tạo ra sự thiếu công bằng giữa những người học nghiêm túc và
những người thầy thực sự muốn đổi mới cách dạy học.
Thầy đọc, trò chép trên lớp, cộng với việc học quá tải liên miên khiến
các em không đủ thời gian suy ngẫm và tự học, thì lấy đâu ra việc tìm tòi, suy
luận để có kiến thức thực sự? Nhưng vấn đề đặt ra, thế nào là thầy không đọc,
Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT
Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 3
trò không chép? Không đọc kiến thức đã có sẵn trong sách giáo khoa, thì thầy
sẽ nói gì để các em ghi lại và phát triển tư duy?
Đội ngũ giáo viên hiện nay phần lớn cũng được đào tạo bằng phương
pháp “đọc – chép” nên để thay đổi cách giảng dạy cũng khó có thể đạt kết quả
một sớm một chiều. Trong khi đó, bộ sách giáo khoa bậc phổ thông đang tiếp
tục được thay đổi và nội dung còn khá nặng nề cũng là một lực cản trong quá
trình nói không với “đọc – chép”.
Thực tế những năm qua có nhiều giáo viên (kể cả bậc đại học) đã áp
dụng phương pháp giảng dạy không đọc chép cho học sinh, sinh viên và đem lại
hiệu quả rõ nét. Nhưng vì không có động lực, thiếu sự khuyến khích, động viên
và tiêu chí rõ ràng, nên cách làm này chỉ có tính tự phát ở một số ít người.
Chấm dứt tình trạng không đọc chép sẽ trở thành hiện thực nếu đội ngũ
giáo viên được coi trọng, nếu đội ngũ giáo viên có động lực và sự đánh giá
nghiêm túc, công bằng từ các cơ quan quan quản lý.
Là một giáo viên trẻ, tuổi đời và tuổi nghề chưa nhiều, nhưng bản thân
tôi luôn tâm niệm, phải làm sao cho học sinh của mình yêu lịch sử và ham lịch
sử, nắm được kiến thức lịch sử. Đó là nhiệm vụ giáo dưỡng và giáo dục, như
đồng chí Phạm Văn Đồng có viết: “Dạy lịch sử phải dạy như thế nào? Nhất định
phải dạy cho học sinh hiểu biết những sự kiện lịch sử, những qui luật lịch sử qua
các thời đại chứ không thể nói ba hoa về chính trị ở đây. Cả lịch sử nước ta là
một sự cỗ vũ sâu xa vô cùng. Dạy sử tốt nhất định tạo cho người thanh niên ta
say mê với dân tộc, say mê và tự hào về dân tộc một cách đúng mực, không hề
tự kiêu, không hề nảy sinh chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.”
Từ đó tôi mới tìm hiểu và áp dụng theo phương pháp “Sử dụng sơ đồ để
hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT” và bài trả lời cho câu hỏi làm thế nào
để đổi mới phương pháp dạy học “không đọc – chép ; không nhìn – chép”.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu : Học sinh TTGDTX Yên Lạc khối 10,11,12
+ Phạm vi nghiên cứu : Hướng dẫn học sinh ghi bài theobằng cách hệ
thống hóa kiến thức Lịch sử bằng sơ đồ.
+ Không gian nghiên cứu: Trung tâm GDTX Yên Lạc
3. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng hệ thống sơ đồ và vận dụng các biện pháp để hướng dẫn HS hệ
thống kiến thức lịch sử sẽ có hiệu quả. Đặc biệt là khả năng tư duy Lịch sử theo
cấu trúc sơ đồ.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Tôi sử dụng phương pháp này theo
hướng sưu tầm tìm đọc các tài liệu liên quan để phục vụ cho việc xây dựng cơ
sở lí luận của đề tài
- Phương pháp thực nghiệm: Tôi đã tiến hành dạy lớp 11A1, chia thành 2
nhóm, một nhóm sử dụng sơ đồ, một nhóm sử dụng phương pháp dạy truyền
thống, sau đó cho làm bài kiểm tra 15 phút.
Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT
Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 4
- Phương pháp toán học thống kê: Sử dụng công thức toán học thông kê
để tính điểm kiểm tra đã chấm trong thực nghiệm sư phạm.
- Đúc rút kinh nghiệm trong việc dạy học của bản thân thông qua
phương pháp thực nghiệm sư phạm tiến hành dạy thử lớp 11A1.
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Cuộc vận động chấm dứt cách dạy học “đọc chép” nếu thành công, sẽ
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Theo GS – TS Đinh Quang Báo,
nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, để cuộc vận động này
thành công, thì đội ngũ giáo viên là yếu tố quyết định. Do vậy ngay từ khâu đào
tạo giáo viên ở các trường đại học, cao đẳng phải đào tạo họ biết cách “không
đọc chép”. Nhiều đồng nghiệp đã nhận thức được sự tai hại của việc dạy học
theo lối đọc chép, nhưng quả thực để “Nói không với đọc chép”, có người chưa
biết nên bắt đầu từ đâu, làm như thế nào, thậm chí còn rất ái ngại, vì thay đổi
một tập quán không dễ gì nếu thiếu một quyết tâm và sự định hướng.
Để làm được điều đó, đòi hỏi giáo viên phải nhận thức đúng đắn tầm
quan trọng của việc dạy học lịch sử là phải cung cấp cho học sinh một hệ thống
kiến thức cơ bản về lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương, qua
đó giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, truyền thống cho học sinh. Nghĩa là
phải vừa khai trí vừa khai tâm cho các em. Hai nhiệm vụ này luôn gắn chặt và
hỗ tương với nhau. Phải giúp cho các em am tường và biết cách vận dụng những
tri thức lịch sử vào cuộc sống.Trong sách giáo khoa, các nội dung sự kiện được
trình bày một cách cô đọng vốn đã rất cần sự phân tích diễn giải, minh hoạ, so
sánh, đối chiếu để giúp học sinh hiểu vấn đề một cách thấu đáo
Mỗi phương pháp dạy học có một giá trị riêng, tuỳ theo nội dung kiến
thức và đối tượng mà lựa chọn phương pháp cho phù hợp nhằm tạo biểu tượng,
hình thành khái niệm, khắc sâu kiến thức cơ bản cho học sinh. Để phát huy
tính tích cực của học sinh trong học tập, phương pháp dạy học sử dụng sơ đồ tỏ
ra có ưu thế. Mỗi bài học chứa đựng một số vấn đề cơ bản của lịch sử, bằng sự
hiểu biết của mình, giáo viên nêu vấn đề, tổ chức cho học sinh giải quyết bằng
cách sáng tạo thành sơ đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực và huy động bộ
não các em làm việc hết công suất cho mỗi bài học, sẽ không còn tình trạng học
sinh ngồi im thụ động chỉ có vài em được phát biểu và làm việc với giáo viên
trong tiết học. Việc học sinh tham gia trực tiếp vào việc giải quyết những yêu
cầu của bài học vừa có tác dụng phát triển tư duy vừa gây hứng thú học tập. Tất
nhiên vai trò dẫn dắt của người thầy là hết sức quan trọng. Dạy học là một nghệ
thuật, bằng tâm hồn, sự hiểu biết và nghệ thuật của giáo viên, những “phần xác”
lịch sử sẽ được “phả hồn” vào một cách sinh động và đẹp đẽ, giúp các em cảm
nhận tốt hơn, yêu thích hơn bộ môn lịch sử.
6. Kết cấu của đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3 phần:
-Phần I : Nêu thực trạng của vấn đề.
-Phần II : Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính.
-Phần III : Kết quả, bài học kinh nghiệm và kiến nghị
Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT
Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 5
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Thực trạng dạy và học ở TTGDTX Yên Lạc:
1.1. Thuận lợi:
Giáo viên có nhiều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy
học như: sử dụng dồ dùng trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, miêu tả, kể
chuyện, nêu đặc điểm nhân vật . Giáo viên tích cực hướng dẫn học sinh thảo
luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau, thông qua hoạt động này những học sinh
yếu kém sẽ được sự hướng dẫn của giáo viên và các học sinh khá giỏi, học sinh
sẽ nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch
sử. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp và khai thác triệt để các đồ
dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, mô hình, ứng dụng
công nghệ thông tin
Học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi giáo
viên đặt ra, một số em có chuẩn bị bài mới ở nhà. Học sinh tham gia tích cực
trong việc thảo luận nhóm và đã đưa hiệu quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến
thức. Học sinh yếu, kém đã và đang nắm bắt kiến thức trọng tâm cơ bản thông
qua các hoạt động như thảo luận nhóm, đọc sách giáo khoa, vấn đáp các em
đã mạnh dạn trả lời các câu hỏi ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, một quá trình
cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình.
1.2. Hạn chế:
Đặc thù của học sinh TTGDTX là nhận thức của các em còn hạn chế, tư
duy chậm, lười suy nghĩ. Gặp phải những câu hỏi tư duy học sinh chưa trả lời
được, ý thức chuẩn bị bài của một số em chưa tốt đã ảnh hưởng đến hiệu quả giờ
dạy trên lớp của giáo viên. Mặt khác, vẫn còn một số ít giáo viên chưa tích cực
hóa hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, nắm vững kiến
thức, vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học “thầy nói, trò nghe’, “thầy đọc, trò
chép”. Do đó nhiều học sinh chưa nắm kiến thức mà chỉ học thuộc một cách
máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn sách giáo khoa hoàn toàn. Một số câu hỏi giáo
viên đặt ra khó, học sinh không trả lời được nhưng lại không có câu hỏi gợi ý
nên nhiều khi phải trả lời thay cho học sinh. Một số tiết giáo viên chỉ nêu vài câu
hỏi và chỉ gọi một số học sinh khá, chưa có câu hỏi giành cho đối tượng học
sinh yếu, kém, làm cho đối tượng này ít được chú ý và không được tham gia
hoạt động đều này làm cho các em tự ti về năng lực của mình, các em cảm thấy
chán nản và không yêu thích môn học.
Học sinh chưa có tinh thần học tập, một số em vừa học vừa làm, việc
tiếp thu bài chậm, đặt câu hỏi phải cụ thể, lặp lại nhiều lần. Các em chưa xác
định được động cơ học tập, học như thế nào? học cho ai? học để làm gì? Vì thế
các em chưa phát huy hết vai trò và trách nhiệm của người học sinh. Học sinh
Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT
Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 6
chưa xác định nội dung của bài học, tiếp thu bài một cách máy móc, các em luôn
có tư tưởng lịch sử là môn phụ nên không cần thiết.
1.3. Điều tra cụ thể:
Trong quá trình vừa giảng dạy vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học
tập bộ môn của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy.Việc
điều tra được thực hiện thông qua những câu hỏi phát triển tư duy trên lớp, kiểm
tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết .
Qua điều tra, đa số học sinh chỉ trả lời những câu hỏi mang tính chất
trình bày, còn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức thì
trả lời chưa được tốt, chưa biết vận dụng và liên hệ kiến thức giữa các bài các
chương, chưa nắm rõ các sự kiện lịch sử qua các giai đoạn hay lẫn lộn giữa sự
kiện này với sự kiện khác. Cụ thể:
Lớp Sĩ số
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
SL % SL % SL % SL % SL %
12A1 35 0 0 6 17,1 18 51,4 10 28,6 1 2,9
11A1 30 0 0 2 6.7 19 63,3 9 30 0 0
2. Giải Pháp thực hiện:
2.1. Đối với học sinh:
Học sinh phải đọc trước bài mới trong sách giáo khoa, chuẩn bị tất cả các
câu hỏi trong SGK phần sẽ học.
Trong giờ học phải chú ý nghe giảng bài, tích cực phát biểu ý kiến, xây
dựng bài, không tiếp thu máy móc phải có suy nghĩ.
Biết cách làm việc theo nhóm, hợp tác với bạn để hoàn thành nhiệm vụ
giáo viên giao cho.
Học sinh tự giác học tập, dựa vào kiến thức giáo viên truyền thụ học sinh
phải biết tự mình tìm tòi, sáng tạo, phân tích sự kiện hoặc so sánh sự kiện này
với sự kiện khác.
Học sinh cần có quyển sổ tay để ghi những vấn đề, những thông tin giáo
viên cung cấp mà không có trong sách giáo khoa.
Học sinh phải biết sử dụng bản đồ, lược đồ trình bày diễn biến một cuộc
khởi nghĩa hoặc một giai đoạn lịch sử.
2.2. Đối với giáo viên:
Chuẩn bị tất cả đồ dùng dạy học khi lên lớp: giáo án (hoặc giáo án điện
tử), bản đồ tranh ảnh, sơ đồ.
Hạn chế giảng giải, thuyết trình, hạn chế đưa ra những câu hỏi vụn vặt
nên tập hợp các câu hỏi thành gợi ý, hướng giải quyết vấn đề.
Khi giảng bài mới phải kết hợp nhiều phương pháp và kết hợp với liên
hệ kiến thức cũ.
Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT
Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 7
Khi học sinh làm việc theo nhóm, giáo viên cần theo dõi, giải đáp ngay
các thắc mắc của học sinh.
Không nên đưa ra những câu hỏi quá đơn giản như: có, đúng, không, sai.
Nếu đặt câu hỏi như vậy phải kèm theo vế sau như vì sao? Hoặc tại sao?
Câu hỏi phải đi từ dễ đến khó, nếu đặt câu hỏi khó sẽ làm cho học sinh
căng thẳng. Nếu câu hỏi khó giáo viên nên gợi ý cho học sinh trả lời, không nên
cho học sinh suy nghĩ quá lâu làm không khí lớp nặng nề.
Trong lúc học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên không nên hối thúc học
sinh, có thể nêu gợi ý tạo cho học sinh không khí thoải mái.
Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT
Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 8
CHƯƠNG II.
MÔ TẢ VÀ GIỚI THIỆU CÁC NỘI DUNG, BIỆN PHÁP CHÍNH
1. Một số giải pháp thực tế trong việc hệ thống kiến thức lịch sử bằng sơ đồ
trong dạy học lịch sử.
Chương trình lịch sử lớp 11 gồm 3 phần: Lịch sử thế giới cận đại (tiếp
theo), lịch sử thế giới hiện đại (từ năm 1917 – 1945), lịch sử Việt Nam (1858 –
1918). Các phần này kế tiếp chương trình lớp 10, vì thế khi học tập học sinh
không thể nắm những kiến thức từng giai đoạn, từng nội dung cụ thể, mà còn
phải tìm hiểu mối quan hệ giữa các sự kiện trong sự phát triển chung, thống nhất
của lịch sử. Điều này đòi hỏi học sinh phải biết và hiểu lịch sử trên cơ sở phát
huy tính tích cực, trí thông minh và sáng tạo. Học sinh phải biết sử dụng kiến
thức đã học để tiếp nhận kiến thức mới, biết quá khứ để tìm hiểu hiện tại. Yêu
cầu học sinh phải nắm vững kiến thức cơ bản, bao gồm những sự kiện, nhân vật
lịch sử, không gian, thời gian
VD: Trong bài 24: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất
của Pháp, phần 1. Những chuyển biến về kinh tế, học sinh phải nắm được chính
sách của Pháp đối với thuộc địa về kinh tế là vơ vét của cải để gánh đỡ những
tổn thất thiếu hụt của Pháp, giáo viên có thể sử dụng sơ đồ sau để học sinh nắm
được các chính sách khai thác về kinh tế
Sơ đồ chính sách cai trị về kinh tế của Pháp
Qua sơ đồ giáo viên có thể trình bày thêm, để thực hiện ý đồ vơ vét của
cải ở thuộc địa, Pháp tăng thuế, bắt dân mua quốc trái; tăng cường vơ vét lương
thực và kim loại cần thiết cho việc chế tạo vũ khí; bắt dân chuyển từ trồng lúa
Nông nghiệp
- Cướp đoạt
ruộng đất
Công nghiệp
- Khai thác mỏ
(than đá, thiếc,
kẽm)
-Chú trọng côn