Tính đến nay lịch sử lập hiến Việt Nam đã trải qua hơn nửa thế kỷ. Tuy đây là một khoảng thời gian không dài so với lịch sử lập hiến hơn hai trăm năm của các nước Pháp, Mỹ và nhiều nước khác trên thế giới nhưng nước ta đã có bốn bản Hiến pháp đánh dấu các giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam, từ Nhà nước dân chủ nhân dân đến Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển của các chế định khác như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, chế định về Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu chính đáng của người dân và phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên 1946, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định ngay tại chương II, sau chương quy định về Chính thể. Với bản Hiến pháp đầu tiên này, người dân Việt Nam từ cảnh lầm than, nô lệ đã thực sự trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình bằng việc Hiến pháp công nhận công dân Việt Nam có quyền bầu cử, ứng cử, có quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại Từ đây địa vị pháp lý của người dân nước ta chính thức được xác lập và ghi nhận trong đạo luật cơ bản của Nhà nước. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tiếp tục được ghi nhận, mở rộng, bổ sung thêm nhiều quyền mới tại các Hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Đặc biệt Hiến pháp 1992 đã ghi nhận một cách tương đối đầy đủ và hoàn thiện về chế định này.
Trong số các quyền cơ bản của công dân được các bản Hiến pháp của nước ta ghi nhận thì các quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân luôn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ các quyền này thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước ta, mức độ giải phóng cá nhân con người, đảm bảo cho con người được sống trong độc lập, tự do. Vì vậy, việc đảm bảo thực hiện trên thực tế các quy định của Hiến pháp về quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân của công dân luôn được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Công dân đã nhận thức được tầm quan trọng của các quyền đó đối với mình cũng như gắn liền quyền lợi của mình đối với các quy định đó. Tuy nhiên, từ việc quy định trong Hiến pháp và pháp luật đến việc bảo đảm thực hiện trên thực tế, công tác tổ chức thực hiện những quy định của Hiến pháp về quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân của công dân vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Đó là thủ tục hành chính còn rườm rà, gây nhiều rắc rối cho nhân dân, một số quyền đã được quy định trong Hiến pháp nhưng vẫn chưa có luật cụ thể hóa và chưa được đảm bảo thực hiện trên thực tế
Trước thực tế đó, vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu nhóm quyền này của công dân qua các bản Hiến pháp Việt Nam từ đó tìm ra những giải pháp góp phần hoàn thiện nó trong sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay có một ý nghĩa vô cùng quan trọng về lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ lý do đó em đã chọn đề tài: “Sự kế thừa và phát triển các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong lịch sử lập hiến Việt Nam” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích của khóa luận là: Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu, so sánh các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 để thấy được tính kế thừa và phát triển của Hiến pháp sau so với bản Hiến pháp trước đó khi quy định về vấn đề này. Từ đó sẽ đề ra phương hướng, giải pháp góp phần hoàn thiện, bổ sung các quyền này của công dân cho phù hợp với giai đoạn hiện nay của đất nước.
Về phạm vi nghiên cứu của khóa luận: Khóa luận đi sâu vào nghiên cứu sự kế thừa và phát triển các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp 1992 hiện hành.
Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận đã sử dụng các phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp hệ thống và kết hợp với khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
Về bố cục của khóa luận: ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được chia làm ba chương:
Chương I: Khái quát chung về quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân
Chương II: Sự kế thừa và phát triển các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân qua các bản Hiến pháp Việt Nam
Chương III: Việc bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong giai đoạn hiện nay
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN VỀ TỰ DO DÂN CHỦ VÀ TỰ DO CÁ NHÂN
Ở nước ta, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn là chế định quan trọng của Hiến pháp và là đối tượng chủ yếu của nền Hiến pháp dân chủ - Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Đảng và nhà nước ta đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về học thuyết quyền con người, quyền công dân trong việc soạn thảo, xây dựng, sửa đổi và ban hành Hiến pháp phù hợp với tình hình thực tế trong từng giai đoạn lịch sử. Xuyên suốt trong quá trình lịch sử lập hiến của Việt Nam, đó là tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng chính quyền Nhà nước “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, coi sự phát triển của cá nhân con người về mọi mặt là mục tiêu cao cả nhất. Vì vậy, quyền con người, quyền công dân không ngừng được mở rộng, được tôn trọng, được bảo vệ và có tính hiện thực.
Các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân được ghi nhận trong Hiến pháp có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với công dân cũng như đối với Nhà nước và xã hội. Nó là cơ sở nền tảng cho việc xác định các quyền cụ thể khác của công dân và được quy định trong Hiến pháp – văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất. Trước khi tìm hiểu về các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong lịch sử lập hiến Việt Nam, cần nghiên cứu một số vấn đề lý luận và khái niệm liên quan đến nhóm quyền này.
62 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3593 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự kế thừa và phát triển các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong lịch sử lập hiến Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………….1
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN VỀ TỰ DO DÂN CHỦ VÀ TỰ DO CÁ NHÂN…………………………………...3
1.1. Khái niệm Công dân...…………………………………………………………3
1.2. Quyền cơ bản của công dân…………………………………………………....6
1.2.1. Khái niệm quyền cơ bản của công dân…..…………………………………..6
1.2.2. Đặc điểm các quyền cơ bản của công dân….………………………………..8
1.2.3. Phân loại các quyền cơ bản của công dân.…………………………………10
. Quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân .………….11
1.3.1. Khái niệm quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân…………………………………………………………………...……………11
1.3.2. Các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong Hiến pháp Việt Nam………………………………………………………………..13
CHƯƠNG II: SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUYỀN CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN VỀ TỰ DO DÂN CHỦ VÀ TỰ DO CÁ NHÂN QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP NƯỚC TA………………………………………………………….15
2.1. Quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong Hiến Pháp 1946…………………………………………………………………………..15
2.2. Quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong Hiến Pháp 1959……………………………………………………………………….....20
2.3. Quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong Hiến Pháp 1980………………………………………………………………………….26
2.4. Quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong Hiến pháp 1992…………………………………………………………………..………32
CHƯƠNG III: VIỆC BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CÁC QUYỀN CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN VỀ TỰ DO DÂN CHỦ VÀ TỰ DO CÁ NHÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...………………………………………………………………43
3.1. Thực tiễn thực hiện các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân...………………………………………………………………………..43
3.1.1. Việc thể chế hóa các quy định của Hiến pháp 1992 trong các văn bản quy phạm pháp luật khác……………………………………………………………….43
3.1.2. Việc thực hiện trên thực tế các quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân của công dân…………………………………………………………………………….45
3.2. Một số giải pháp nhằm bảo đảm các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong giai đoạn hiện nay...…………………………...47
3.2.1. Việc hoàn thiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân của công dân….………………………………….48
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế tổ chức thực hiện các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân…..………………………………………...51
KẾT LUẬN………………………………………………………………...55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
Tính đến nay lịch sử lập hiến Việt Nam đã trải qua hơn nửa thế kỷ. Tuy đây là một khoảng thời gian không dài so với lịch sử lập hiến hơn hai trăm năm của các nước Pháp, Mỹ và nhiều nước khác trên thế giới nhưng nước ta đã có bốn bản Hiến pháp đánh dấu các giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam, từ Nhà nước dân chủ nhân dân đến Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển của các chế định khác như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ,…chế định về Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu chính đáng của người dân và phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên 1946, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định ngay tại chương II, sau chương quy định về Chính thể. Với bản Hiến pháp đầu tiên này, người dân Việt Nam từ cảnh lầm than, nô lệ đã thực sự trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình bằng việc Hiến pháp công nhận công dân Việt Nam có quyền bầu cử, ứng cử, có quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại…Từ đây địa vị pháp lý của người dân nước ta chính thức được xác lập và ghi nhận trong đạo luật cơ bản của Nhà nước. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tiếp tục được ghi nhận, mở rộng, bổ sung thêm nhiều quyền mới tại các Hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Đặc biệt Hiến pháp 1992 đã ghi nhận một cách tương đối đầy đủ và hoàn thiện về chế định này.
Trong số các quyền cơ bản của công dân được các bản Hiến pháp của nước ta ghi nhận thì các quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân luôn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ các quyền này thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước ta, mức độ giải phóng cá nhân con người, đảm bảo cho con người được sống trong độc lập, tự do. Vì vậy, việc đảm bảo thực hiện trên thực tế các quy định của Hiến pháp về quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân của công dân luôn được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Công dân đã nhận thức được tầm quan trọng của các quyền đó đối với mình cũng như gắn liền quyền lợi của mình đối với các quy định đó. Tuy nhiên, từ việc quy định trong Hiến pháp và pháp luật đến việc bảo đảm thực hiện trên thực tế, công tác tổ chức thực hiện những quy định của Hiến pháp về quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân của công dân vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Đó là thủ tục hành chính còn rườm rà, gây nhiều rắc rối cho nhân dân, một số quyền đã được quy định trong Hiến pháp nhưng vẫn chưa có luật cụ thể hóa và chưa được đảm bảo thực hiện trên thực tế…
Trước thực tế đó, vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu nhóm quyền này của công dân qua các bản Hiến pháp Việt Nam từ đó tìm ra những giải pháp góp phần hoàn thiện nó trong sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay có một ý nghĩa vô cùng quan trọng về lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ lý do đó em đã chọn đề tài: “Sự kế thừa và phát triển các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong lịch sử lập hiến Việt Nam” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích của khóa luận là: Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu, so sánh các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 để thấy được tính kế thừa và phát triển của Hiến pháp sau so với bản Hiến pháp trước đó khi quy định về vấn đề này. Từ đó sẽ đề ra phương hướng, giải pháp góp phần hoàn thiện, bổ sung các quyền này của công dân cho phù hợp với giai đoạn hiện nay của đất nước.
Về phạm vi nghiên cứu của khóa luận: Khóa luận đi sâu vào nghiên cứu sự kế thừa và phát triển các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp 1992 hiện hành.
Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận đã sử dụng các phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp hệ thống và kết hợp với khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
Về bố cục của khóa luận: ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được chia làm ba chương:
Chương I: Khái quát chung về quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân
Chương II: Sự kế thừa và phát triển các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân qua các bản Hiến pháp Việt Nam
Chương III: Việc bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong giai đoạn hiện nay
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN VỀ TỰ DO DÂN CHỦ VÀ TỰ DO CÁ NHÂN
Ở nước ta, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn là chế định quan trọng của Hiến pháp và là đối tượng chủ yếu của nền Hiến pháp dân chủ - Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Đảng và nhà nước ta đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về học thuyết quyền con người, quyền công dân trong việc soạn thảo, xây dựng, sửa đổi và ban hành Hiến pháp phù hợp với tình hình thực tế trong từng giai đoạn lịch sử. Xuyên suốt trong quá trình lịch sử lập hiến của Việt Nam, đó là tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng chính quyền Nhà nước “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, coi sự phát triển của cá nhân con người về mọi mặt là mục tiêu cao cả nhất. Vì vậy, quyền con người, quyền công dân không ngừng được mở rộng, được tôn trọng, được bảo vệ và có tính hiện thực.
Các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân được ghi nhận trong Hiến pháp có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với công dân cũng như đối với Nhà nước và xã hội. Nó là cơ sở nền tảng cho việc xác định các quyền cụ thể khác của công dân và được quy định trong Hiến pháp – văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất. Trước khi tìm hiểu về các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân trong lịch sử lập hiến Việt Nam, cần nghiên cứu một số vấn đề lý luận và khái niệm liên quan đến nhóm quyền này.
1.1. Khái niệm Công dân
Trong xã hội, con người luôn tồn tại trong mối liên hệ với người khác và chịu tác động, ảnh hưởng của môi trường xã hội. Mỗi chế độ xã hội đều có các cá nhân là những con người chịu sự chi phối của điều kiện chính trị, kinh tế, đời sống xã hội, hoàn cảnh xã hội và trình độ văn minh của chế độ xã hội ấy. Cá nhân thường được quan niệm là một con người xã hội cụ thể, hay nói cách khác cá nhân là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Trong xã hội có giai cấp mỗi cá nhân đều thuộc về một giai cấp, tầng lớp nhất định. Bất kỳ Nhà nước nào và vào bất kỳ thời đại nào, giai cấp thống trị nắm Nhà nước luôn tìm mọi cách tác động vào cá nhân nhằm tạo ra một mẫu người phù hợp với mong muốn, lợi ích của giai cấp mình, của thời đại mình đang thống trị.
Con người sinh ra trong thời đại có Nhà nước luôn có mối liên hệ, quan hệ với Nhà nước. Quan hệ đó được thiết lập trên cơ sở pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong quan hệ. Con người đó trở thành công dân của Nhà nước. Như vậy, trong mối quan hệ giữa một cá nhân và một Nhà nước nhất định khoa học pháp lý hình thành nên khái niệm công dân. Vậy, công dân là gì?
Công dân là cá nhân trong quan hệ với Nhà nước và pháp luật, là sự xác định về mặt pháp lý một thể nhân thuộc về một Nhà nước nhất định. Nhờ sự xác định này mà con người có các quyền do Nhà nước ghi nhận, được Nhà nước bảo đảm, bảo hộ các quyền, lợi ích ở trong nước cũng như khi ở nước ngoài và phải làm các nghĩa vụ công dân đối với Nhà nước. Ngược lại Nhà nước có những quyền yêu cầu công dân của mình thực hiện các nghĩa vụ công dân và Nhà nước có những nghĩa vụ đối với công dân của mình.
Khái niệm công dân ra đời từ lâu trong lịch sử nhưng nó chỉ trở thành thuật ngữ pháp lý khi Nhà nước tư sản ra đời và được sử dụng rộng rãi trong xã hội tư sản và xã hội Xã hội chủ nghĩa. Nó thể hiện mối quan hệ pháp lý đặc thù giữa Nhà nước với một số người nhất định, xác định địa vị pháp lý của cá nhân trong Nhà nước và xã hội. Nhờ khái niệm công dân mà chúng ta có thể xác định được những quyền mà công dân được hưởng, những nghĩa vụ mà công dân phải thực hiện đối với Nhà nước của mình và ngược lại, Nhà nước cũng có trách nhiệm đảm bảo cho các quyền của công dân được thực hiện, đồng thời yêu cầu công dân thực hiện nghĩa vụ đối với mình.
So với khái niệm cá nhân thì khái niệm công dân hẹp hơn, bởi cá nhân bao gồm những người là công dân và những người không phải là công dân. Và trong một quốc gia thì không chỉ có công dân của quốc gia đó mà còn có thể có công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch (không phải là công dân của bất kì quốc gia nào), thậm chí có người mang nhiều quốc tịch. Hay nói cách khác không phải mọi cá nhân sinh sống trên lãnh thổ của một quốc gia đều được coi là công dân của quốc gia đó. Một cá nhân muốn trở thành công dân thì cần những điều kiện nhất định. Những điều kiện đó có thể giống hoặc khác nhau tùy thuộc vào pháp luật của từng quốc gia quy định. Điều 49 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”. Như vậy, theo quy định này thì điều kiện để một người trở thành công dân Việt Nam là người đó phải có quốc tịch Việt Nam. Hay nói cách khác ai có quốc tịch Việt Nam thì người đó là công dân Việt Nam. Quốc tịch là trạng thái pháp lý xác định một cá nhân thuộc về một Nhà nước nhất định và là tiền đề pháp lý cần thiết để một cá nhân có thể hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ mà pháp luật của Nhà nước đó quy định. Qua đó có thể thấy khái niệm công dân gắn liền với khái niệm quốc tịch; muốn xác định người nào đó có phải là công dân Việt Nam hay không thì phải xem họ có quốc tịch Việt Nam hay không. Quốc tịch Việt Nam là căn cứ duy nhất để xác định một người nào đó là công dân Việt Nam.
Có thể nói việc đặt ra khái niệm công dân có một ý nghĩa rất quan trọng. Điều này thể hiện, nếu là công dân của một Nhà nước thì người đó sẽ được hưởng đầy đủ các quyền và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà Nhà nước đó quy định. Còn những người không phải là công dân của Nhà nước sở tại thì quyền và nghĩa vụ của họ bị hạn chế trong một số lĩnh vực như: họ không có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội; không có quyền quyền bầu cử, ứng cử; họ cũng không phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân,…Mặt khác, khái niệm công dân thể hiện mối quan hệ pháp lý có tính chất đặc biệt, tồn tại cả trong trường hợp công dân Việt Nam đã ra nước ngoài sinh sống nhưng vẫn còn mang quốc tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là công dân Việt Nam vẫn có đầy đủ những quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật hiện hành dù họ ở trong nước hay nước ngoài. Việc sinh sống ở trong hay ngoài nước sẽ không ảnh hưởng đến tư cách công dân khi mà họ vẫn mang quốc tịch Việt Nam. [18].
Tóm lại, việc xác định một người có quốc tịch Việt Nam liên quan trực tiếp đến việc xác định quyền và nghĩa vụ của họ trong mối quan hệ với Nhà nước Việt Nam. Tất cả những người có quốc tịch Việt Nam đều là công dân Việt Nam và dù họ sinh sống ở trong nước hay nước ngoài thì họ đều có những quyền và nghĩa vụ cơ bản của một công dân Việt Nam. Giữa Nhà nước và công dân có mối liên hệ qua lại và cùng có trách nhiệm, Nhà nước phải đảm bảo các quyền công dân và công dân phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội.
1.2. Quyền cơ bản của công dân
1.2.1. Khái niệm quyền cơ bản của công dân
Mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân chủ yếu được thể hiện thông qua quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân. Tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân tạo nên quy chế pháp lý của công dân. Quy chế pháp lý của công dân bao gồm nhiều chế định khác nhau như: vấn đề quốc tịch; năng lực pháp luật và năng lực hành vi của công dân; các nguyên tắc Hiến pháp của quy chế pháp lý của công dân; các quyền, tự do và nghĩa vụ pháp lý của công dân; các biện pháp đảm bảo để quyền, nghĩa vụ công dân được thực hiện trong thực tế… Mỗi chế định điều chỉnh một mặt trong địa vị pháp lý của công dân và được hợp lại tạo thành quy chế pháp lý của công dân. Địa vị pháp lý của công dân mỗi nước là khác nhau vì chúng bị chi phối bởi điều kiện kinh tế - xã hội của Nhà nước đó. Điều này liên quan đến các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân giữa các nước có điều kiện kinh tế phát triển với các nước có nền kinh tế chậm phát triển.
Tư cách công dân đã tạo cho cá nhân một địa vị pháp lý đặc biệt, một quan hệ đặc biệt với một Nhà nước nhất định, khác với những người không phải là công dân. Mối quan hệ đặc biệt đó được thể hiện thành quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đối với nước ta vấn đề quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được ghi nhận thành một chương của Hiến pháp. Ngay từ Hiến pháp 1946 – bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã dành chương II để quy định về “Nghĩa vụ và quyền lợi công dân”. Những quyền được quy định trong Hiến pháp được gọi là quyền cơ bản và những người có tư cách công dân được Nhà nước quy định cho hưởng những quyền nhất định đó gọi là quyền cơ bản của công dân.
Như vậy, có thể hiểu quyền cơ bản của công dân là khả năng của mỗi công dân được tự do lựa chọn những hành vi được quy định trong Hiến pháp và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Từ đó có thể đưa ra định nghĩa: Các quyền cơ bản của công dân là hệ thống các quyền của công dân được quy định trong Hiến pháp, xuất phát từ quyền công dân và không tách rời nghĩa vụ của công dân, biểu hiện mối quan hệ đặc biệt quan trọng giữa công dân và Nhà nước, được Nhà nước đảm bảo thực hiện trên thực tế nhằm thỏa mãn những nhu cầu của đời sống công dân và toàn xã hội. [18, Tr.30].
Các quyền của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp được gọi là các quyền cơ bản trước hết vì nó xác định những mối quan hệ cơ bản nhất giữa Nhà nước và công dân. Mặt khác, những quyền này lại được quy định trong đạo luật cơ bản của Nhà nước. Do vậy, các quyền cơ bản của công dân là cơ sở chủ yếu, có ý nghĩa quyết định để xác định địa vị pháp lý của công dân, xác định các quyền cụ thể khác của công dân ở mọi cấp độ và trong mọi ngành luật. Các quyền này xuất phát từ quyền con người (nhân quyền), nên việc ghi nhận chúng trong văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất của Nhà nước là nhằm bảo vệ và không xâm phạm chúng trong quá trình thực hiện quyền lực Nhà nước.
Trên thực tế, mỗi công dân chỉ có thể tham gia vào một lĩnh vực sinh hoạt xã hội nhất định, đảm nhiệm một chức năng xã hội nhất định tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện, khả năng riêng của mỗi người. Do đó, các quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp phải được cụ thể hóa, chi tiết hóa trong các luật khác. Trong từng thời kỳ nhất định, tùy theo mức độ hoàn thiện của quan hệ sản xuất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong xã hội, Nhà nước quy định về quyền cơ bản của công dân và các biện pháp bảo đảm thực hiện trên thực tế. Trên cơ sở đó tạo điều kiện cho mỗi công dân được làm chủ xã hội, làm chủ bản thân, sử dụng đúng đắn các quyền công dân của mình, tích cực tham gia các sinh hoạt xã hội, đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Đặc điểm các quyền cơ bản của công dân
Các quyền cơ bản của công dân được bắt nguồn từ bản chất của chế độ chính trị, chế độ kinh tế, xã hội của Nhà nước. Do đó, chúng đều được xác lập, thực hiện và phát triển phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước. Các quyền cơ bản của công dân luôn phản ánh bản chất của chế độ chính trị - xã hội và trình độ phát triển của xã hội. Đồng thời mỗi nhóm quyền lại phản ánh đặc điểm chung ấy bằng những biểu hiện riêng của mình xuất phát từ tính chất, nội dung của quan hệ xã hội được Hiến pháp điều chỉnh. Khi tìm hiểu về các quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp, ta thấy chúng có các đặc điểm sau:
- Các quyền cơ bản của công dân thường được xuất phát từ các quyền tự nhiên thiêng liêng và bất khả xâm phạm của con người như quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc … và là các quyền được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận trong Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền (1948) và hai Công ước về Quyền con người (Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa năm 1966 của Liên Hợp Quốc).
- Các quyền cơ bản của công dân là những quyền thuộc các lĩnh vực quan trọng và cơ bản nhất trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Chúng là cơ sở chủ yếu để xác định địa vị pháp lý của công dân. Các quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp là cơ sở đầu tiên cho việc ghi nhận các quyền khác của công dân trong các ngành luật. Ví dụ: các quyền về lao động của công dân do Luật lao động quy định như quyền được hưởng lương, quyền được nghỉ phép, quyền được nghỉ hưu đều dựa trên cơ sở quyền lao động của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp.
- Các quyền cơ bản của công dân gắn liền với các quyền dân tộc cơ bản là độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, tự do, dân chủ, bình đẳng, hạnh phúc. Đặc điểm này phản ánh tư tưởng cách mạng triệt để của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của dân tộc, tư tưởng đó là: Công dân chỉ thực sự được hưởng các quyền cơ bản của mình khi họ được sống trong một nước độc lập, tự do, có chủ quyền dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Việc các bản Hiến pháp của nước ta quy định các quyền cơ bản của công dân gắn liền với các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam vừa phản ánh thực tế lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta, vừa phù hợp với các văn bản chính trị - pháp lý quốc tế