Đề tài Sự mất cân đối trong thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và những giải pháp khắc phục

Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới có thể phát triển mà lại đứng biệt lập, tách rời quan hệ kinh tế với các nước khác. Xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới là một trong những xu hướng vận động chủ yếu trong đời sống kinh tế quốc tế hiện nay. Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là yêu cầu rất cấp bách để xây dựng nền kinh tế phát triển nhanh ở nước ta. Muốn phát triển nền kinh tế lạc hậu, thiếu vốn, thiếu những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài thì đầu tư nước ngoài đã trở nên một vấn đề quan trọng và cần thiết để phát triển nền kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài thì nước tiếp nhận đầu tư có thể tranh thủ huy động được nguồn vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại của nước ngoài, tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài. Không những thế đầu tư nước ngoài còn là cơ hội để tìm kiếm thị trường bên ngoài, tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới. Nắm bắt được tình hình thực tế đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) đã đề ra những chính sách hết sức đúng đắn, đánh dấu bước chuyển biến quan trọng, xoá bỏ hoàn toàn cơ chế quan liêu bao cấp cũ. Một trong những bước chuyển biến lớn trong định hướng đổi mới kinh tế, thể chế hoá đường lối của Đại hội VI là việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Sau khi Luật đầu tư nước ngoài ra đời và thay đổi, bổ sung liên tục quá trình thu hút đầu tư nước ngoài Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đó, quá trình thu hút đầu tư, sự vận hành của các dự án đã làm nảy sinh vấn đề mất cân đối cần được khắc phục nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.

doc60 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1841 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự mất cân đối trong thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và những giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ TRỰC TIẾP VÀO VIỆT NAM .Khái niệm: Đầu tư quốc tế là hiện tượng di chuyển vốn từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời. Với khái niệm như trên, cho thấy mục tiêu của sự dịch chuyển vốn ra nước ngoài để đầu tư chính là lợi nhuận, cho nên ý nghĩa thực tiễn của khái niệm này là: +Đối với nhà donh nghiệp khi đóng vai rò là người tìm đối tác đầu tư nước ngoài cùng hợp tác bảo vốn làm ăn với mình thì họ phải sẵn có trong tay dự án đầu tư (LCKTKT) mang tính khả thi cao, có như vậy mới tạo ra sự quan tâm của đối tác. +Đối với doanh nghiệp khi đóng vai trò là nhà đầu tư ra nước ngoài thì trước khi thực hiện chuyển vốn ra nước ngoài phải nghiên cứu kỹ: môi trường đầu tư ở nước sở tại (nơi mà doanh nghiệp lựa chọn sự đầu tư) và sự tác động của nó đối với khả năng sinh lời của dự án; tính rủi ro của môi trường đầu tư. + Đối với Chính phủ muốn tăng cường thu hút vốn đầu tư cho quốc gia mình thì phải tạo ra môi trường đầu tư mang tính cạnh tranh cao( so với môi trường đầu tư của các nước khác) trong việc mang lại lợi cơ hội tạo lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư nước ngoài. 1.2. Các hình thức đầu tư: 1.2.1 Các hình thức đầu tư trực tiếp: 1.2.1.1 Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: Nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư theo hình thức 100% vốn để thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đ thnh lập tại Việt Nam được hợp tác với nhau và với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài mới. 1.2.1.2 Thành lập tổ chức kinh tế dưới hình thức liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư Việt Nam: Nhà đầu tư nước ngoài được liên doanh với nhà đầu tư trong nước để đầu tư thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan; Doanh nghiệp được thành lập theo hình thức nêu trên được phép liên doanh với nhà đầu tư trong nước hoặc nhà đầu tư nước ngoài để thành lập một tổ chức kinh tế mới. 1.2.1.3 Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh do doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư tại Việt Nam: Trường hợp đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài với một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước (sau đây gọi tắt là các bên hợp doanh) thì nội dung hợp đồng hợp tác kinh doanh phải có quy định về quyền lợi, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên hợp doanh; Trong quá trình đầu tư, kinh doanh, các bên hợp doanh có quyền thoả thuận thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên hợp doanh thỏa thuận. Ban điều phối không phải là cơ quan lnh đạo của các bên hợp doanh; Văn phòng điều hành của bên hợp doanh nước ngoài có con dấu; được mở tài khoản, tuyển dụng lao động, ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư và hợp đồng hợp tác kinh doanh. 1.2.2 Các hình thức đầu tư gián tiếp: Đầu tư theo hình thức gốp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp, theo đó: Nhà đầu tư có quyền góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp để tham gia quản lý hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan. Doanh nghiệp nhận sáp nhập, mua lại kế thừa các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập, mua lại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; Nhà đầu tư khi góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp tại Việt Nam phải: thực hiện các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về tỷ lệ góp vốn, hình thức đầu tư và lộ trình mở cửa thị trường; tuân thủ các quy định về điều kiện tập trung kinh tế của pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về doanh nghiệp; đáp ứng điều kiện đầu tư trong trường hợp dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện. 1.2.3 Hình thức tín dụng quốc tế: Về thực chất, đây cũng là hình thức đầu tư gián tiếp nhưng nó có những đặc thù riêng, cho nên trong thực tế, hình thức vẫn được phân loại như một hình thức đầu tư độc lập: Tín dụng quốc tế là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay vốn và kiếm lời thông qua lãi suất tiền vay. Đây là hình thức đầu tư chủ yếu vì nó có những ưu điểm sau đây: + Vốn vay chủ yếu dưới dạng tiền tệ, dễ dàng chuyển thành các phương tiện đầu tư khác. +Nước tiếp nhận đầu tư toàn quyền sử dụng vốn đầu tư cho các danh mục đích riêng rẽ của mình. +Chủ đầu tư nước ngoài có thu nhập ổn định thông qua lãi suất, số tiền này không phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của vốn đầu tư. +Nhiều nước cho vay vốn được trục lợi về chính trị, trói buộc các nước vay vốn vào vòng ảnh hưởng của mình. ODA-hình thức tín dụng quốc tế đặc biệt ODA được viết tắt từ chữ tiếng anh Official Development Assitance- Hỗ trợ phát triển chính thức. Đây là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay vốn với những điều kiện đặc biệt ưu đãi: cho vay dài hạn, lãi suất thấp, trả nợ thuận lợi nhằm giúp cho các nước gặp khó khăn về kinh tế, trong đó có các nước đang phát triển phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế và gia tăng phúc lợi xã hội. +Người cho vay là các tổ chức tài chính quốc tế hoặc Chính phủ các nước. Người đi vay là Chính phủ các nước có nhu cầu về vốn để cải thiện môi trường kinh doanh và xã hội. +Đa số vốn vay phải được hoàn trả cả gốc lẫn lời. +Muốn sử dụng vốn vay phải có dự án và được thẩm định bởi nhiều bên liên quan. +Việc triển khai dự án phải có sự giám sát hiểu quả đầu tư về phía bên cho vay và bên nước nhận vay nợ. 1.3. Vai trò của đầu tư quốc tế đối với sự phát triển kinh tể của Việt Nam: 1.3.1 Đầu tư quốc tế là nguồn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam: Đối với những ngành đòi hỏi vốn lớn như khai thác khoáng sản, công nghệ cao, công nghiệp nặng…thật sự là một khó khăn cho nền kinh tế qui mô nhỏ như Việt Nam hiện nay. Do đó, đầu tư quốc tế thật sự là nguồn vồn dồi dào, giúp nền kinh tế phát triển nhanh hơn. Theo thống kê FDI đăng ký vào Việt Nam là hơn 100tỷ USD (năm 2008). Các ngành lắp ráp ôtô, TV, khai thác dầu thô…là những ngành thu hút vốn đầu tư lớn nhất. Vốn ODA tập trung vào phát triển y tế, giao dục, khoa học môi trường…cũng là nền tảng để phát triển bền vững kinh tế Việt Nam. Bảng số liệu : vốn và cơ cấu vốn đầu tư phát triển của Việt Nam (2004-2009) Đơn vị:Tỷ đồng Năm  Tổng số  Kinh tế nhà nước  Tỷ lệ cơ cấu (%)  Kinh tế ngoài nhà nước  Tỷ lệ cơ cấu (%)  Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài  Tỷ lệ cơ cấu (%)   2004  290927  139,831  48,1  109,754  37,7  41,342  14,2   2005  343135  161,635  47,1  130,398  38,0  51,102  14,9   2006  404712  185,102  45,7  154,006  38,1  65,604  16,2   2007  532093  197,989  37,2  204,705  38,5  129,399  24,3   2008  616735  209,031  33,9  217,034  35,2  190,670  30,9   2009  708826  287,534  40,6  240,109  33,9  181,183  25,5   Theo Tổng cục thống kê 1.3.2 Các dự án có vốn đầu tư nước ngoài góp phần tăng thu ngân sách, góp phần cải thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia. Thật vây, chưa tính đến các dự án triển khai thực hiện bằng nguồn vốn ODA và các công ty có sự tham gia đầu tư tài chính của các quỹ đầu tư và cá nhân nước ngoài, thì chỉ riêng các dự án FDI ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong trị giá tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam và thật sự trở thành bộ phận hữu cơ, quan trọng của nền kinh tế nước ta. 1.3.3 Các dự án đầu tư nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài luôn cao hơn so với mức tăng trưởng bình quân của Việt Nam và chiếm tỷ trọng ngày càng cao, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa. Ngoài ra, nhiều dự án có vốn FDI đang hoạt động tại các khu công nghệ cao, khu công nghiệp đã góp phần cải thiện trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam.  Theo Tổng cục thống kê 1.3.4 Các dự án đầu tư nước ngoài đóng góp quan trọng trong nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của Việt Nam: Thông qua các dự án đầu tư FDI, nhiều công nghệ mới, hiện đại đã được đưa vào sự dụng ở Việt Nam trong các ngành tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khi, ngành bưu chính viễn thông, sản xuất vi mạch điện tử, sản xuất máy tính, hóa chất ôtô, thiết kế các phần mềm…, những dự án này đóng góp đáng kể tăng khả năng cạnh tranh của công nghệ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, sự sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại ở các dự án FDI cũng tạo ra sự kích thích các doanh nghiệp nội địa phải đầu tư đổi mới công nghệ để tạo được những sản phẩm có khả năng cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Các mô hình quản lý và các phương thức kinh doanh hiện đại của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới tư duy quản lý kinh doanh và công nghệ để tăng khả năng cạnh tranh. Khu vực  Tỷ Lệ những thiết bị hiện đại nhất  Mức độ hiện đại trung bình (so với TB hiện đại nhất)  Khoảng cách trung bình (so với TB hiện đại nhất)   Công cộng  11.4  53.1  35.5   Các công ty trung ương  10.6  60.6  28.8   Các công ty địa phương  11.9  48.6  39.5   Không phải khu vực công cộng  6.7  27  66   Công ty tư nhân  20  30  50   Kinh tế gia đình  3.6  22.8  73.6   Công ty đầu tư nước ngoài  44.4  55.6  -   Theo Tổng cục thống kê 1.3.5 Các dự án có vốn đâu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế Việt Nam hòa nhập nhanh với nền kinh tế thế giới: Cho đến hết năm 2008, đã có 81 quốc gia và lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, trong đó có trên 120 công ty xuyên quốc gia nằm trong 500 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới, chính những dự án này có tác động không nhỏ tới thay đổi cơ chế chính sách quản lý kinh tế Việt Nam theo hướng hội nhập quốc tế, chúng tác động đến xóa bỏ sự bao vây, cấm vận quốc tế đối với Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam gia nhập ASEAN, ký kết trên 100 hiệp định song phương và đa phương, trong đó có Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, hiệp định WTO. 1.3.6 Hoạt động đầu tư nước ngoài có đóng góp quan trọng vào nguồn thu ngân sách quốc gia: Không kể các lĩnh vực đầu tư ODA, đầu tư gián tiếp và không tính đến lĩnh vực khai thác và xuất khẩu dầu thô, thì gia đoạn 1996-2000 đầu tư FDI đã đóng góp 1,49tỷ USD vào ngân sách của Việt Nam, gấp 4,5 lần so với giai đoạn 1990-1995; giai đoạn 2001-2005 bình quân đóng góp vào ngân sách tăng hàng năm là 24%, tổng đóng góp ở giai đoạn này của dự án FDI là 3,67tỷ USD. Riêng 2 năm 2006 và 2007, đóng góp vào ngân sách trên 3tỷ USD, và những năm tiếp theo tốc độ đóng góp sẽ gia tăng vì nhiều dự án đi vào hoạt động và mở rộng qui mô kinh doanh tại Việt Nam. 1.3.7 Các dự án có vốn đầu tư quốc tế đóng góp quan trọng trong tạo công ăn việc làm cho người lao động Việt Nam: Tính đến năm 2008, Việt Nam với dân số 86,5triệu người, hàng năm tăng thêm gần 1,5 triệu người, đưa Việt Nam trở thành nước đứng thứ 13 trên thế giới về dân đông. Gần 10.000 dự án đầu tư FDI đã thu hút hơn một triệu lao động trực tiệp và hai triệu lao động gián tiếp. Tóm lại các dự án đầu tư nước ngoài góp phần giảm thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động Việt Nam. Không những tăng về số lượng lao động mà còn tăng cả về chất lượng thông qua đào tạo, huấn luyện nghề, trình độ quản lý. Những vấn đề đã và đang gặp phải trong quá trình thu hút đầu tư quốc tế của Việt Nam: +Bị thất thuế do có hiện tượng “chuyển giá”: Năm 2008, tỷ lệ doanh nghiệp FDI ở TPHCM thua lỗ cũng chiếm tới 61,3% và trước đó, năm 2007, năm hưng thịnh của kinh tế Việt Nam, vẫn có gần 70% doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này lỗ. Kết quả trên đồng nghĩa với TPHCM không thu được một khoản thuế thu nhập doanh nghiệp từ những công ty này. Có thể nói, thua lỗ là xu hướng chung của doanh nghiệp FDI, không chỉ ở TPHCM, mà trên cả nước. Nó được phản ánh qua tỷ lệ đóng góp cho ngân sách quốc gia của khối này (không kể dầu thô) khá thấp. Trong các năm 2005-2008 chỉ dao động quanh 9-10% tổng thu ngân sách của quốc gia. Thống kê của Cục Thuế TPHCM về kết quả kinh doanh năm 2009 của doanh nghiệp FDI trên địa bàn cho thấy, gần 60% số doanh nghiệp báo cáo thua lỗ. Đây hoàn toàn không phải là kết quả bất thường so với những năm trước đó, nên khó đổ lỗi cho hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, tỷ lệ thua lỗ cao bất thường của doanh nghiệp FDI không hẳn tại khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh mà còn do nhiều công ty thực hiện chính sách chuyển giá ra nước ngoài, nhằm trốn thuế ở Việt Nam. +Thực trạng bị chuyển các công nghệ lạc hậu hoặc dự án gây ô nhiễm môi trường. Do thiếu kinh nghiệm nên tỉnh Đà Nẳng đã để nhiều nhà đầu tư nước ngoài (chủ yếu là Đài Loan) tranh thủ đưa vào các dự án công nghệ đơn giản, lạc hậu, chủ yếu tận dụng lực lượng lao động giá rẻ tại chỗ (Công ty Wei Xern Sin Industrial Đà Nẵng). Không ít dự án gây ô nhiễm môi trường kéo dài, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, môi trường sinh thái và cuộc sống của người dân. Ở nhiều dự án, đối tác nước ngoài khi tham gia góp vốn với đối tác VN đã không triển khai theo cam kết trong hợp đồng liên doanh. Như đưa công nghệ cũ, lạc hậu sang VN góp vốn nhưng lại đẩy giá lên cao... dẫn đến xảy ra tranh chấp khiến dự án không thực hiện được (Công ty liên doanh Việt Xuân, Biopharm AFS, Vietenerrgo…). Đặc biệt, có đến 30% số dự án đầu tư đăng ký để chiếm đất ở các vị trí quan trọng song không có khả năng hoặc chỉ đăng ký rồi không triển khai (như ôtô Nissan, quần thể du lịch quốc tế ITC, khách sạn Tourane 74 Bạch Đằng…). “Đà Nẵng học được gì qua 20 thu hút vốn FDI”-nguồn Xaluan.com +Các dự án FDI vào ngành khai khoáng hiệu quả không cao, nguy cơ kiệt quệ nguồn tài nguyên quốc gia: Có thể nói, kỹ thuật sản xuất của các doanh nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản nước ta hiện rất lạc hậu, phần lớn dựa vào kỹ thuật thủ công và bán cơ khí của những năm giữa thế kỷ XX. Tình trạng này không chỉ đối với công nghệ của các doanh nghiệp trong nước, mà ngay cả với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Theo đánh giá gần đây tại Thành phố Hồ Chí Minh, có hơn 60% số doanh nghiệp FDI có trình độ công nghệ thấp dưới mức trung bình(2). Do vậy, chi phí sản xuất 1 đơn vị sản phẩm của công nghiệp khai thác chế biến khoáng sản của nước ta cao, hiệu quả thấp, không phát huy được lợi thế tuyệt đối và không đạt được lợi thế so sánh. Hiệu quả đầu tư vào ngành công nghiệp nặng, công nghiệp khai khoáng không cao hơn so với đầu tư vào ngành nông, lâm, ngư nghiệp, thủy sản. Số liệu thống kê năm 2008 cho thấy, đầu tư cho công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản là 50.962 tỉ đồng, xuất khẩu được 19.200 triệu USD, tỷ suất xuất khẩu trên vốn đầu tư là 0,376 triệu USD/1 tỉ đồng vốn đầu tư. Trong khi đó, vốn đầu tư cho nông, lâm, ngư nghiệp, thủy sản là 38.978 tỉ đồng, xuất khẩu được 14.910 triệu USD, tỷ suất xuất khẩu trên vốn đầu tư là 0,382(3). Như vậy, tỷ suất xuất khẩu trên vốn đầu tư cho nông, lâm, ngư nghiệp, thủy sản cao hơn so với công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, dù là không nhiều, song đầu tư cho nông, lâm, ngư nghiệp, thủy sản hầu như ít gây hại cho môi trường sinh thái, thậm chí nếu có tạo ra chi phí môi trường thì vẫn có thể kiểm soát được. Trong khi đó, việc khai thác tài nguyên khoáng sản đang tàn phá môi trường sinh thái, làm kiệt quệ nguồn tài nguồn không tái tạo được, làm chết những dòng sông, ảnh hưởng đến sự phát triển trong tương lai. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tính toán lại việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được cho phát triển trong những năm tới. Theo Tạp chí cộng sản số 16 – năm 2010 + Sự mất cân đối thu nhập giữa các vùng kinh tế có FDI và kinh tế nhà nước, tư nhân Số liệu thống kê cũng cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của các doanh nghiệp FDI trong việc tạo ra việc làm mới trong hai thập kỷ qua, đặc biệt trong những năm gần đây. Trong giai đoạn 2000-2005, việc làm mới được tạo ra bởi các doanh nghiệp FDI tăng trung bình 24,4%/năm (tăng gần gấp ba lần về mặt tuyệt đối, từ 227.000 người năm 2000 lên 667.000 người năm 2005), bỏ xa khu vực doanh nghiệp nhà nước và tư nhân (lần lượt là 3,3% và 2,3%). Kết quả là tỷ trọng việc làm được tạo ra bởi các doanh nghiệp FDI đã tăng từ 0,6% năm 2000 lên 1,6% năm 2005 ở VN. Số liệu công bố qua các cuộc điều tra gần đây về tiền lương cho thấy các doanh nghiệp FDI đang thắng thế trong cạnh tranh thu hút nhân lực cấp cao, như các chức danh quản lý doanh nghiệp. Mức lương trả cho lao động quản lý trong các doanh nghiệp FDI trung bình là 12 triệu đồng/tháng (năm 2005), cao hơn nhiều so với mức lương tương ứng ở các doanh nghiệp nhà nước (4,3 triệu) và doanh nghiệp tư nhân (3 triệu). Theo TS. Phan Minh Ngọc (Khoa Kinh tế, Đại học Kyushu, Nhật Bản) Thời báo kinh tế Sài Gòn 1.5. Bài học kinh nghiệm của các quốc gia khác trong việc thu hút FDI 1.5.1 Cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư Môi trường pháp lý có vai trò quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Thể chế chính trị ổn định, hệ thống pháp luật đồng bộ, thủ tục đầu tư đơn giản và nhiều chính sách khuyến khích, đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư là những bí quyết của các nước châu Á thành công nhất. Đơn giản hóa thủ tục, quy trình đầu tư: Thủ tục đầu tư ở các nước này đều là thủ tục một cửa đơn giản, với những hướng dẫn cụ thể tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. Ở Thái Lan có Luật xúc tiến thương mại quy định rõ ràng cơ quan nào, ngành nào có nhiệm vụ gì trong việc xúc tiến đầu tư. Trung Quốc thực hiện phân cấp, phân quyền, nâng cao quyền hạn nhiều hơn cho các tỉnh, thành phố, khu tự trị trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI. Nhà nước cho phép mỗi tỉnh, thành phố, khu tự trị có những đặc quyền trong quản lý, phê chuẩn dự án đầu tư.. Công khai các kế hoạch phát triển kinh tế: Thái Lan thực hiện tốt công tác quy hoạch và công khai các kế hoạch phát triển đất nước từng giai đoạn, ngắn và trung hạn. Trung Quốc cũng công bố rộng rãi và tập trung hướng dẫn đầu tư nước ngoài vào các ngành được khuyến khích phát triển. Hệ thống pháp luật đồng bộ, đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư: Hàn Quốc chú trọng xây dựng hệ thống luật đồng bộ, đảm bảo cho nhà đầu tư nước ngoài được hưởng mức lợi nhuận thỏa đáng. Trung Quốc thể hiện sự quan tâm đến những quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài bằng cách thường xuyên bổ sung, sửa đổi luật đầu tư nước ngoài, đảm bảo tính thực thi nghiêm túc. Những hoạt động thanh tra trái phép, thu lệ phí hay áp đặt thuế sai quy định đối với các doanh nghiệp nước ngoài bị xử lý nghiêm khắc.Nhiều quy định được xóa bỏ để phù hợp với pháp luật kinh doanh quốc tế như tỷ lệ nội địa hóa, cân đối ngoại tệ. Phạm vi ngành nghề được phép đầu tư được mở rộng, từ 186 lên đến 262 khoản mục được đầu tư. 1.5.2 Giảm thuế, ưu đãi tài chính tiền tệ Thu nhiều nhất lợi nhuận từ dự án luôn là mục đích hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, nhiều nước châu Á đã có những chính sách tài chính hấp dẫn cho các nhà đầu tư như giảm thuế, ưu đãi tiền tệ, cho vay ngoại tệ...nhằm thu hút nhiều nhất nguồn vốn FDI vào các nước này. Cắt giảm thuế: Hầu hết các nước châu Á đều đưa ra những chính sách cắt giảm thuế hấp dẫn đối với các dự án đầu tư nước ngoài. Hàn Quốc miễn giảm thuế 7 năm với doanh nghiệp FDI có vốn trên 50 triệu USD. Thái Lan miễn thuế thu nhập doanh nghiệp từ 3 đến 8 năm, miễn thuế nhập khẩu 90% đối với nguyên liệu, 50% đối với máy móc mà Thái Lan chưa sản xuất được...Ở Trung Quốc, các dự án đầu tư vào đặc khu kinh tế, khu công nghệ cao s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnội dung hoàn chỉnh.doc
  • docBìa.doc
  • docMở đầu - Kết luận.doc
  • docMục lục.doc
  • docPHỤ LỤC.doc
  • docTÀI LIỆU THAM KHẢO.doc
Luận văn liên quan