Văn học là loại hình nghệ thuật đặc thù, quan tâm và thể hiện đời sống con người ở nhiều góc độ, nhiều phương diện. Nói cách khác văn học là nhân học, là những câu chuyện về cuộc đời, về những con người cụ thể. Ở mỗi thời kì, mỗi giai đoạn văn học khác nhau, số phận con người cũng được quan tâm khác nhau, như văn học thời kì trung đại quan tâm đến con người xã hội, con người cộng đồng. Trong khi đó văn học hiện đại chuyển xu hướng đó qua từng cá nhân cụ thể.
Văn học Việt Nam hiện đại, tiêu biểu là xu hướng văn học hiện thực phê phán, quan tâm, khám phá sâu sắc đời sống vật chất và đời sống tinh thần của từng cá nhân cụ thể, đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm bí ẩn của từng số phận con người. Trong đó, nhà văn Nam Cao – một hiện tượng văn học đặc biệt, ông không chỉ thể hiện nỗi đau của con người trong xã hội hiện tại, ông còn bộc lộ nỗi đau của mình trước sự tha hóa của con người. Nam Cao luôn băn khoăn, trăn trở tìm kiếm lối thoát cho những số phận luôn bị dằn vặt bởi cái nghèo, cái đói. Họ bị biến đổi cả hình hài lẫn nhân tính cũng bởi những lo toan cơm, áo, gạo tiền và cả ý nghĩa cuộc sống. Những bi kịch luôn xảy ra với các tầng lớp trong đời sống xã hội từ người nông dân đến người trí thức.
Những trang viết của Nam Cao đã thu hút rất nhiều sự chú ý của giới nghiên cứu văn học. Họ nghiên cứu về đời sống nhà văn, về nội dung sáng tác, về tư tưởng, phong cách và về bút pháp nghệ thuật. Vì thế, người viết luận văn này mong muốn được khám phá thêm một phương diện trong phong cách sáng tác của Nam Cao. Đó là nỗi đau về sự tha hóa của con người trong giai đoạn trước1945.
35 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 11929 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự tha hóa của con người trong sáng tác của Nam Cao trước 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Văn học là loại hình nghệ thuật đặc thù, quan tâm và thể hiện đời sống con người ở nhiều góc độ, nhiều phương diện. Nói cách khác văn học là nhân học, là những câu chuyện về cuộc đời, về những con người cụ thể. Ở mỗi thời kì, mỗi giai đoạn văn học khác nhau, số phận con người cũng được quan tâm khác nhau, như văn học thời kì trung đại quan tâm đến con người xã hội, con người cộng đồng. Trong khi đó văn học hiện đại chuyển xu hướng đó qua từng cá nhân cụ thể.
Văn học Việt Nam hiện đại, tiêu biểu là xu hướng văn học hiện thực phê phán, quan tâm, khám phá sâu sắc đời sống vật chất và đời sống tinh thần của từng cá nhân cụ thể, đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm bí ẩn của từng số phận con người. Trong đó, nhà văn Nam Cao – một hiện tượng văn học đặc biệt, ông không chỉ thể hiện nỗi đau của con người trong xã hội hiện tại, ông còn bộc lộ nỗi đau của mình trước sự tha hóa của con người. Nam Cao luôn băn khoăn, trăn trở tìm kiếm lối thoát cho những số phận luôn bị dằn vặt bởi cái nghèo, cái đói. Họ bị biến đổi cả hình hài lẫn nhân tính cũng bởi những lo toan cơm, áo, gạo tiền và cả ý nghĩa cuộc sống. Những bi kịch luôn xảy ra với các tầng lớp trong đời sống xã hội từ người nông dân đến người trí thức.
Những trang viết của Nam Cao đã thu hút rất nhiều sự chú ý của giới nghiên cứu văn học. Họ nghiên cứu về đời sống nhà văn, về nội dung sáng tác, về tư tưởng, phong cách và về bút pháp nghệ thuật. Vì thế, người viết luận văn này mong muốn được khám phá thêm một phương diện trong phong cách sáng tác của Nam Cao. Đó là nỗi đau về sự tha hóa của con người trong giai đoạn trước1945.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận nghiên cứu về sự tha hóa của con người thể hiện trong các tác phẩm truyện ngắn và tiểu thuyết của Nam Cao trước 1945 (khoảng 42 tác phẩm). Nhằm khẳng định thêm một nét riêng về đặc trưng phong cách của Nam Cao trong số các nhà văn cùng khuynh hướng hiện thực phê phán. Đồng thời tham khảo ý kiến của những nhà nghiên cứu – phê bình về sáng tác của Nam Cao. “Người và tác phẩm Nam Cao “ (1956) hay “Những kỉ niệm Nam Cao” (1991) và khẳng định “Nam Cao không che dấu, không màu mè gì hết, nói toạc cái cuộc sống cùng đường tận lối và nhơ nhớp của những người như anh”. Ông khẳng định tác phẩm Nam Cao luôn thể hiện những trải nghiệm từ cuộc sống của tác giả.
Nằm trong số những người đầu tiên nghiên cứu về Nam Cao, từ năm 1960, Phong Lê – Huệ Chi có công trình nghiên cứu “Đọc truyện ngắn Nam Cao soi lại những bước đi lên của nhà văn hiện thực”, ông có nhận định “Đọc tập truyện ngắn của Nam Cao trước tiên chúng ta hiểu và yêu mến thêm Nam Cao, nhà văn đã chân thành giãi bày cuộc đời mình, một cuộc đời vốn mang theo bao nhiêu tâm trạng tủi hổ, xót xa nhưng luôn luôn ngoi lên chửi trả lại cuộc sống tối tăm và luôn luôn khao khát tìm đến cho mình và con người của tầng lớp mình một cuộc sống sao cho thật có ý nghĩa nhân đạo và sáng tạo” Ông nhấn mạnh những sáng tác của Nam Cao có mối quan hệ trực tiếp từ hiện thực cuộc sống. Luận văn khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu trong những sáng tác của Nam Cao trước 1945 (dựa theo Nam Cao toàn tập, 3 tập do Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2000). Và nghiên cứu vị trí của Nam Cao trong trào lưu hiện thực phê phán gồm các nhà văn như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan… và những công trình nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề cương đưa ra một số phương pháp nghiên cứu để làm tiểu luận như:
Phương pháp hệ thống: xem xét tác phẩm như một chỉnh thể, toàn bộ tác phẩm của Nam Cao như một hệ thống và là một yếu tố xuyên suốt trong tất cả hệ thống sáng tác của Nam Cao.
Phương pháp so sánh: ở hai cấp độ
So sánh các tác phẩm của Nam Cao để thấy sự ổn định, bền vững và sự phát triển phong cách nghệ thuật nhà văn theo hướng vừa thống nhất, vừa đa dạng.
So sánh với các tác phẩm của các tác giả khác để thấy được sự độc đáo, mới mẽ của phong cách nghệ thuật Nam Cao.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: đưa ra những dữ kiện để phân tích và tổng hợp
Phương pháp thống kê: để tìm tần số lặp đi đi lặp lại của các yếu tố tạo nên chủ đề và phong cách sáng tác.
4. Đóng góp đề tài
Tìm hiểu sự tha hoá của con người trong sáng tác của Nam Cao trước năm 1945 sẽ góp phần giúp chúng ta nhận thức một cách toàn diện hơn về con người tài năng và phẩm giá, những đóng góp của Nam Cao trong nền văn học Việt Nam.
5. Cấu trúc của bài tiểu luận.
Bài tiểu luận này được sắp xếp thành 3 phần.
A. Mở đầu: Giới thiệu chung, hoàn thành các mục cơ bản của bài tiểu luận.
B. Nội dung:
Chương 1: Nam Cao với chủ đề tha hoá trong sáng tác trước 1945.
Chương 2: Phương diện và hệ quả của sự tha hoá trong sáng tác của Nam Cao trước 1945
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện sự tha hoá trong sáng tác của Nam Cao trước 1945.
C. Kết luận: Hệ thống lại những luận điểm, nội dung chính của bài tiểu luận.
B. NỘI DUNG
Chương 1: NAM CAO VỚI CHỦ ĐỀ THA HÓA TRONG SÁNG TÁC TRƯỚC 1945
1.1. Khái niệm tha hóa:
1.1.1. Một số định nghĩa:
Tha hóa là một từ được dùng theo những ý nghĩa khác nhau, nói cách khác là một từ có nhiều khái niệm:
Trong đời sống cộng đồng, tha hóa là một khái niệm có ý nghĩa đạo đức, nói về những trường hợp người bị biến chất, bị mất đi những phẩm chất tốt đẹp vốn có của mình trước đây.
Trong nghiên cứu khoa học - xã hội, tha hóa là một khái niệm có ý nghĩa triết học, nói về một hiện tượng, một quy luật diễn ra trong đời sống xã hội.
Như vậy, theo từ điển Tiếng Việt, tha hóa mang hai ý nghĩa đạo đức và ý nghĩa triết học. (Nhưng từ điển Tiếng Việt chỉ ghi tha hóa là “Động từ”. Thực ra tha hóa có khi là động từ, có khi là danh từ, tính từ, vì người ta vẫn gọi là “Sự tha hóa”.)
1.2. Vấn đề tha hóa trong sáng tác của Nam Cao:
1.2.1. Quan niệm của Nam Cao về tha hóa:
Với Nam cao, thế giới con người thật muôn màu muôn vẻ. Đời sống nhân vật trong sáng của ông bị ảnh hưởng và chi phối từ nhiều phía.
Nam Cao không đưa ra ý niệm tha hóa cụ thể như Hê - ghen mà ông cụ thể hóa nó bằng những hiện thực sinh động trong sáng tác của mình. Đó là trạng thái con người bị mất gốc, bị cắt đứt những giá trị Người, tách rời với những chuẩn mực đạo đức xã hội. Xa rời cộng đồng, họ biến đổi theo chiều hướng ngày càng xấu đi, thành những cái khác đối nghịch lại cái ban đầu, những giá trị Người. Với cách hiểu như vậy, trong sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám có khoảng 30 trong 136 nhân vật thuộc kiểu người đang đánh mất dần nhân tính: liều mạng, hung dữ, bất cần đời như Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ. Tham ăn, khát uống, giành giật, tồi tệ như anh cu Lộ trong Tư cách mõ, người cha trong Trẻ con không được ăn thịt chó,
Trước Nam Cao đã có nhiều nhà văn như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng cũng đã viết nhiều về vấn đề tha hóa của con người ở hai lĩnh vực giàu – nghèo trong xã hội. Họ tập trung miêu tả nhân vật bị tha hóa bề ngoài. Trong Bỉ vỏ, Nguyên Hồng miêu tả nhân vật Tám Bính dù tha hóa nhưng trước sau vẫn là một tâm hồn phụ nữ thuần hậu giàu đức hi sinh, muốn sống bằng bàn tay lao động của mình. Còn Vũ Trọng Phụng miêu tả sự trụy lạc của con người do những dục vọng không thành, đó là tình trạng tha hóa của Long, Mịch, ông bà đồ Uẩn trong Giông tố. Ông không phơi bày những tính hư tật xấu của nhân vật, mà từ trái tim nhân hậu, yêu thương trân trọng con người đã cho thấy tha hóa là một quá trình biện chứng có tính quy luật do nhiều yếu tố tác động. Cả hai yếu tố trên cũng có quan hệ biện chứng, hoàn cảnh tác động và trách nhiệm của bản thân không vượt lên được hoàn cảnh. Đó cũng chính là vần đề cốt lõi hình thành quan niệm của nhà văn về con người và cuộc sống. Từ đó, ta có thể hình dung được phong cách và tầm vóc của nhà văn trong xã hội đương thời.
1.2.2. Nguyên nhân của sự tha hóa:
1.2.2.1. Tha hóa do tự thân.
Là nhà văn hiện thực, Nam Cao đã có cái nhìn tổng thể về con người, con người chịu sự chi phối của hoàn cảnh sống và bản thân con người cũng bất lực trước hoàn cảnh sống.
Trong những sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng, cái đói, miếng ăn cứ trở đi, trở lại như một quy luật, một nỗi ám ảnh đeo bám con người. Các nhà văn cùng thời Kim Lân, Ngô Tất Tố, Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan…Cũng đau lòng, nhức nhối trước tình trạng đói nghèo, tha hóa ở người nông dân. Còn đối với Nam Cao nó không chỉ tập trung ở người nông dân cùng khổ, mà còn ở những người trí thức.
Nhân vật trong sáng tác của Nam Cao đã tự thân tha hóa ở nhiều phương diện khác nhau, từ cách ăn mặc, suy nghĩ tới lời nói và hành động của mình.
1.2.2.2. Tha hóa do các tác nhân ngoại cảnh.
Nam Cao không chỉ thể hiện lòng thông cảm, xót thương cho những người nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội mà còn thể hiện những trăn trở, dằn vặt khôn nguôi trước cuộc sống vô nghĩa, bế tắc. Nhà văn buồn cho những kiếp người nhưng vẫn tin tưởng ở họ. Tin ở bản tính hiền lành, chất phát của con người. Nên các nhân vật của ông không buông xuôi, thụ động mà luôn tích cực, chủ động vươn lên trong cuộc sống.
Các nhân vật trong sáng tác của Nam Cao dù tự thân tha hóa hay do tác động của ngoại cảnh thì kết cục của những sự tha hóa đó thường là cái chết nhưng không phải cái chết theo quy luật sinh hóa lẽ thường (Sinh Lão bệnh Tử).
Các nhân vật rơi vào bi kịch, tha hóa, tìm đến cái chết nhưng không phải là cái chết ngờ nghệch, mù quáng. Vì thế, mà cái chết của các nhân vật được Nam Cao miêu tả không hề vô nghĩa. Đó là hồi chuông thức tỉnh mọi người, cảnh báo một xã hội đầy rẫy những bất công, phi lí.
Chương 2: PHƯƠNG DIỆN VÀ HỆ QUẢ CỦA SỰ THA HÓA TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO TRƯỚC 1945
2.1.Các phương diện của sự tha hóa:
2.1.1. Tha hóa về đạo đức - nhân cách:
Đạo đức - một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực đời sống của xã hội không trừ lĩnh vực nào. Đạo đức khác với những hình thức điều chỉnh hoạt động quần chúng như pháp quyền, những sắc lệnh nhà nước, những truyền thống dân tộc… Những yêu cầu của đạo đức mang hình thức bổn phận phải làm không riêng một ai, như nhau đối với tất cả, nhưng không chịu sự ra lệnh của ai cả. Những yêu cầu này, có tính chất tương đối bền vững. Trong đạo đức, bên cạnh ý thức xã hội, ý thức cá nhân đóng một vai trò không kém quan trọng. Dựa vào những quan niệm đạo đức, lĩnh hội những quan niệm đó trong quá trình giáo dục, với mức độ đáng kể, cá nhân có thể điều chỉnh hành vi của mình và tự nhận định về ý nghĩa đạo đức với tất cả những gì diễn ra chung quanh.
Nét đặc trưng của nhân cách là thừa nhận “Cá nhân” là hiện thực có trước và là giá trị tinh thần cao nhất, hơn nữa “Cá nhân” được hiểu như yếu tố tinh thần đầu tiên của tồn tại. Tha hóa về đạo đức – nhân cách thể hiện trong sự phát triển của cá nhân theo chiều hướng ngược lại những chuẩn mực đạo đức xã hội. Nam Cao viết nhiều về những người trí thức tiểu tư sản, tức nhắm vào tầng lớp mình, bản thân mình.
Nam Cao luôn nhìn đời bằng con mắt của tình thương, do đó tiếng nói của ông bao giờ cũng mang âm hưởng của tình thương. Xuất phát từ quan niệm sống tích cực về con người nhằm giúp con người nhận ra và biết xấu hổ về những gì là phàm tục, tầm thường của bản thân trong cái môi trường xã hội tù hãm, u ám và thê thảm vây quanh họ. Những trang viết của Nam Cao luôn có âm hưởng mỉa mai, chua chát pha chút đáng cay ngậm ngùi, đó là nỗi đau triền miên của tác giả trước tình trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm. Như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã có một nhận định tinh tế và xác đáng về thái độ của Nam Cao: “Nam Cao ghét cay, ghét đắng những lối phàm tục tiểu tư sản. Đặc biệt là lối sống nhỏ nhen, ích kỷ, tính giả dối và thái độ hèn nhát. Mỗi truyện ngắn, truyện dài của ông viết về tiểu tư sản là một cuộc phân tích và chế giễu cay độc những thói xấu ấy…. Tình trạng bế tắc ấy đã đem đến cho Nam Cao một giọng văn riêng, vừa ngậm ngùi buồn tủi, vừa cay đắng chua chát lại pha chút tự trào cười ra nước mắt”
2.1.2. Tha hóa trong lối sống - hành vi.
2.1.2.1. Con người chạy trốn thực tại:
Đúng hơn là đối diện với chính mình, với thực tại, nhân vật của Nam Cao luôn có sự đấu tranh, giằng co tư tưởng rất quyết liệt để vươn lên cuộc sống xứng đáng.
Nghệ thuật và đời sống luôn mâu thuẩn, muốn lao động sáng tạo nghệ thuật nhưng những khó khăn trong cuộc sống thật khó thực hiện, không yên tâm mà nghĩ đến việc viết văn. Đó là mâu thuẩn gặp nhiều ở những nhân vật trí thức như Hộ, Điền, Thứ… Mơ ước của họ chỉ muốn viết văn sao cho hay, có giá trị, xây dựng một sự nghiệp văn chương chân chính trước cuộc sống vô cùng khó khăn, hằng ngày phải lo cơm áo. Nhân vật của Nam Cao chạy trốn thực tại khi đã đối diện với nó, đấu tranh tồn tại với nó. Họ chỉ buông xuôi khi không thể níu kéo. Điều đáng trân trọng ở họ luôn có lòng tự trọng về nghề nghiệp và mơ ước. Họ không ôm đồm, nữa vời để viết những tác phẩm vô vị.. Nam Cao đã không để nhân vật có một cái nhìn phiến diện, chủ quan mà luôn biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác.
Nam Cao xây dựng nhân vật rất khác các nhà tiểu thuyết lớp trước. Thế giới nhân vật của ông không gồm hai mặt chính diện và phản diện rạch ròi. Mà các nhân vật cũng không thống nhất giữa diện mạo và phẩm chất. Dưới ngòi bút của ông các nhân vật thường đa dạng, phức tạp nhưng rất gần với cuộc sống. Cuộc sống thực tế chi phối và tác động đến tính cách của nhân vật. Các nhà văn hiện thực trước như Hồ Biểu Chánh, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Xây dựng các nhân vật phần nhiều thể hiện trên bình diện đạo đức, xã hội. Còn các nhân vật của Nam Cao ngoài các bình diện trên, còn được nhà văn chú ý đến bình diện đời sống tự nhiên, bản năng và nội tâm phức tạp.
2.1.2.2. Con người giành giật nhau từng miếng ăn:
Dân tộc ta bị giặc ngoại xâm bóc lột hàng ngàn năm, từ giặc phương Bắc đến thực dân Pháp. Đối với nhân dân ta miếng ăn, manh áo đã trở thành nỗi ám ảnh, sự đấu tranh sinh tồn. Thực tế đó đã được phản ánh nhiều từ văn học dân gian, đến văn học trung đại và hiện đại. Còn đối với Nam Cao, miếng ăn là sự thách thức ghê gớm đối với nhân cách con người, nó phá vỡ những mối quan hệ, tình cảm thân thuộc hằng ngày hay những giá trị nhân bản. Nam Cao là đại biểu xuất sắc của dòng văn học hiện thực thời kì này, ông miêu tả số phận người nông dân cùng quẫn trong xã hội nửa thực dân phong kiến như Chí Phèo .Trong ăn uống, người ta vẫn ưu tiên cho người có tuổi những món ngon, hiếm như sự kính trọng. Trong sáng tác của Nam Cao, đời sống con người là sân khấu bi kịch và bi hài kịch của những xung đột tư tưởng xoay quanh việc giành giật miếng ăn để sống. Ông đã hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá những suy tư của con người về nhiều góc độ của miếng ăn. Miếng ăn cứu đói, miếng ăn giữa làng hay miếng ăn vì danh dự. Chính vì vậy mà đối với ông, việc miêu tả miếng ăn rất phong phú, nó gắn liền với hoàn cảnh sống của con người. Tác giả mong muốn khai thác những vấn đề của cuộc sống xung quang cái ăn, cái uống. Nhân tính con người một phần cũng được thể hiện ở đây. Chí Phèo phải thay hình đổi dạng, đổ máu dọa nạt người khác để kiếm ăn, một lão Hạc tự vẫn cũng muốn giữ lại phần của con, hay người cha “Nghèo” treo cổ cũng không muốn ăn cơm trong khi con mình phải ăn cám… Nhân vật không chỉ tha hóa khi giành giật miếng ăn của nhau, mà còn tha hóa khi tìm cái chết để giữ lại miếng ăn cho người khác. Ở khía cạnh này, tha hóa có tính bi kịch hơn, đau đớn hơn. Rõ ràng, vấn đề ăn để mà sống luôn gắn với sự tồn tại nhưng chết để giữ lại miếng ăn cho người khác thì cái chết ấy thật ý nghĩa. Hay cái chết no của bà cái Đĩ. Cái chết trong quằn quại vì ăn bả chó của Lão Hạc. Cái chết vì xấu hổ và trì độn của lang Rận và mụ Lợi. Và cái chết giấu giếm vợ con của người cha đau ốm trong Nghèo. Hầu hết họ đều chủ động tìm đến cái chết, chết trong sự bần cùng, bế tắc, bi kịch.
2.2. Hệ quả của sự tha hóa:
2.2.1. Đánh mất chính mình:
Đánh mất chính mình là một dạng của sự tha hóa. Con người đã không còn giữ được tính cách, phẩm chất của mình, thay đổi thành một con người khác đối lập với chính mình trước đây. Sự tha hóa này nhằm thích nghi với cuộc sống hiện tại, với xu hướng mới, gạt bỏ đi những giá trị tốt đẹp vốn có.Những diễn biến tình cảm suy tư của của thế giới bên trong nhân vật làm cho người đọc có những cảm giác giày vò, nhức nhối về cuộc sống có phần bế tắc của họ. Đó cũng là hồi chuông mà Nam Cao muốn cảnh báo đến những thành phần trong xã hội muốn đổi đời bằng con đường bất chính, tha hóa. Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người làm ra của cải vật chất bằng chính đôi bàn tay và khối óc, bằng lao động chân chính. Những nhân vật như Bá Kiến trong “Chí Phèo”, Nghị Hách “Giông Tố” hay Nghị Quế “Tắt Đèn”… Họ đã đánh mất con người của mình từ lâu. Với họ, ngoài đồng tiền, địa vị và quyền lực trên đời này không còn gì đáng quan tâm cả.
2.2.2. Làm mất tính người.
Các nhân vật đánh mất tình người phần nhiều do hoàn cảnh tác động. Cuộc đời họ cứ vậy trôi chảy trong sự bất lực của bản thân, tác giả cũng xót xa nhìn nhân vật của mình cứ trượt dài trong quá trình đánh mất mình. Hiện tượng biến chất ở nhân vật Chí Phèo và hàng loạt những nhân vật khác như Binh Chức, Năm Thọ, Trương Rự… Đều do hoàn cảnh xô đẩy như một quy luật không cưỡng lại được.
Hoàn cảnh sống có khả năng làm tha hóa con người, con người muốn không bị tha hóa thì phải có ý thức chống lại những mặt tiêu cực của bản thân. Nhưng trớ trêu thay, họ lại là nạn nhân của hoàn cảnh. Tác giả đã cho thấy áp lực của hoàn cảnh gây sức ép đẩy nhân vật vào cảnh ngộ bi đát. Hầu hết, họ đều vùng vẫy trong sự bế tắc để chống lại hoàn cảnh như sự nghèo khổ, miếng cơm manh áo, cái tầmMái ấm gia đình là sợi dây vô hình ràng buộc con người sống với nhau, có tình thương và trách nhiệm. Dù hoàn cảnh sống có chật vật, khó khăn nhưng mối quan hệ của các thành viên trong gia đình luôn tác động với nhau vươn lên trong cuộc sống. Có đôi lúc, họ xem sự hiện diện của người khác là trách nhiệm, là gánh nặng cho bản thân họ. Dạng người mà Nam Cao miêu tả, hiện nay khá phổ biến trong xã hội. Biết bao đứa trẻ bị bỏ rơi trong bệnh viện khi vừa chào đời, người ta không còn nói riêng trẻ mồ côi mà nói chung “Trại trẻ mồ côi”. Hay những người già neo đơn, cơ nhỡ, họ không phải không có người thân mà họ có cả một gia đình hẳn hoi, nhưng đã bị chính những người con, những người cháu được họ nuôi dưỡng khôn lớn đã ném họ ra ngoài xã hội trong tuổi già vì nhiều lí do khác nhau nhưng nhìn chung cũng chỉ vì đồng tiền và sĩ diện. Vì đồng tiền người ta đã tha hóa, đánh đổi tất cả, trước tiên là đánh mất bản thân. Đánh mất những giá trị nhân bản, phá vở những truyền thống tốt đẹp. Thông qua cái chết mòn về thể xác do nghèo đói, Nam Cao muốn nhấn mạnh đến cái chết về nhân tính đang diễn ra hàng ngày ở mọi nơi, mọi giới trong xã hội. Vẫn còn đó những con người bất hạnh, khổ sở, những thân phận tù túng không lối thoát hay những con người đã mòn mỏi mưu sinh đến kiệt quệ. Một xã hội có giai cấp bóc lột, bị bóc lột, giai cấp thống trị và tầng lớp bị trị. Những người bị tha hóa ở mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Những giá trị đạo đức truyền thống không còn đủ sức mạnh để gìn giữ, bảo vệ các mối quan hệ. Thì nay, nông thôn cũng bị thành thị hóa về đời sống tư tưởng. Thì cái làng quê trong sáng tác của Nam Cao là cuộc sống bình thường nhưng đầy bất ổn, rạn vỡ khi đời sống con người đang băng hoại dần, tha hóa, biến chất. Nó được biểu hiện qua bộ mặt của bọn cường hào hoặc những viên quan phụ mẫu. Chúng không phải là chỗ tin cậy, hay chỗ dựa của những người dân thấp cổ bé miệng, Những con người lam lũ, nhếch nhác không trông đợi được ở chúng sự công bằng. Mà họ luôn chịu những oan ức bất công trong sự chịu đựng, câm lặng và tuyệt vọng Nếu cái đói diễn ra thường xuyên, dai dẳng và lan rộng thì hệ quả của nó là cái chết, mặc dù không phải tất cả cái đói đều dẫn tới cái chết. Dù chết vì bệnh hay chết vì no nhưng nhìn chung do cái đói gây ra. Cái đói hủy hoại con người cả thể xác lẫn tinh thần, hủy hoại cả nhân tính, cứ nhìn vào cách nói của bà Phó Thụ cũng có thể khẳng định đối với người làm thuê và người thân của họ bà chẳng thể hiện một chút cảm tình nào. Nam Cao đã phơi bày sự th