Đề tài Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội là lịch sử phát triển của những phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao. Mà lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động phát triển của xã hội. `Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến, tác động trong toàn tiến trình lịch sử của nhân loại. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây nước ta đã không nhận thức đúng đắn về quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Cơ chế quan liêu, bao cấp đã bóp méo các yếu tố của quan hệ sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất, kết quả của sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã làm cho mâu thẫu giữa chúng trở nên gay gắt. Điều đó khiến cho nền kinh tế Việt Nam phải ở trong tình trạng khủng hoảng, trì trệ một thời gian dài. Chính vì vậy, việc đưa nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có ý nghĩa vô cùng to lớn, đặc biệt là trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay.

doc12 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4454 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất MỞ BÀI Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội là lịch sử phát triển của những phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao. Mà lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động phát triển của xã hội. `Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến, tác động trong toàn tiến trình lịch sử của nhân loại. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây nước ta đã không nhận thức đúng đắn về quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Cơ chế quan liêu, bao cấp đã bóp méo các yếu tố của quan hệ sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất, kết quả của sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã làm cho mâu thẫu giữa chúng trở nên gay gắt. Điều đó khiến cho nền kinh tế Việt Nam phải ở trong tình trạng khủng hoảng, trì trệ một thời gian dài. Chính vì vậy, việc đưa nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có ý nghĩa vô cùng to lớn, đặc biệt là trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay. Lý luận của chủ nghĩa Mac – Lênin về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất, nó thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm hai bộ phận cơ bản: tư liệu sản xuất và người lao động Tư liệu sản xuất là những tư liệu để tiến hành sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động( máy móc,…) và đối tượng lao động khác ( phương tiện để vận chuyển, bảo quản, chứa đựng công cụ lao động và sản phẩm ).Còn đối tượng lao động gồm hai bộ phận là những yếu tố nguyên nhiên vật liệu có sẵn trong tự nhiên ( đất đai, than đá,…) và một bộ phận phải trải qua sự cải tạo của con người (gọi là nhân tạo) ví dụ như nhựa, gỗ ép… Trong tư liệu sản xuất thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất. Người lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất vì người lao động đóng vai trò là chủ thể của quá trình sản xuất, là người tạo ra tư liệu lao động và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng lao động tạo ra sản phẩm, còn tư liệu sản xuất chỉ đóng vai trò là khách thể chịu sự tác động trong quá trình sản xuất. Ngày nay sự phát triển vượt bậc và khả năng ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất đã khiến cho tri thức khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các yếu tố trong lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau một cách khách quan làm cho lực lượng sản xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất trong một phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm : quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất ( quan hệ sỡ hữu ) nói lên ai chủ sỡ hữu đối với nhà máy, xí nghiệp, các thiết bị, các nguyên nhiên vật liệu trong quá trình sản xuất. Quan hệ trong tổ chức quản lý quá trình sản xuất (quan hệ quản lý ) nói lên ai là người thực hiện quyền tổ chức, quản lí, điều hành, giám sát quá trình( đó chính là người sở hữu tư liệu sản xuất ). Quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó (quan hệ phân phối ) nói lên ai là người có quyền quyết định việc phân phối, chia thành quả của quá trình sản xuất cho ai, bao nhiêu và như thế nào ? Trong ba mặt trên của quan hệ sản xuất thì quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất có vai trò quan trọng nhất, quyết định hai mặt kia, đồng thời quan hệ quản lí và quan hệ phân phối có tác động trở lại, kìm hãm hoặc thúc đẩy quan hệ sở hữu. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với sự hình thành,biến đổi và phát triên của quan hệ sản xuất Tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có một quan hệ sản xuất phù hợp ở cả ba mặt của nó. Do yêu cầu phát triển sản xuất vật chất lực lượng sản xuất không ngừng phát triển lên ở trình độ cao hơn, đòi hỏi quan hệ sản xuất phải biến đổi cho phù hợp tạo động lực cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song lực lượng sản xuất thường phát triển nhanh hơn trong khi quan hệ sản xuất chậm thay đổi hơn. Do đó khi sự phát triển của lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện yêu cầu thay thế quan hệ sản xuất mới phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Quan hệ sản xuất có vai trò tác động trở lại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất, phân phối. Do đó nó trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động. Sự tác động của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng, hoặc là tích cực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp hoặc là tiêu cực, kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó không phù hợp. Sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất có thể là do quan hệ sản xuất lạc hậu hơn, hoặc do quan hệ sản xuất vượt trước trình độ của lực lượng sản xuất hiện có. Như vậy, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển phá vỡ sự phù hợp về mặt trình độ của quan hệ sản xuất đối với nó đòi hỏi phá bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời thay thế bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn. Qúa trình đó lặp đi lặp lại tác động cho xã hội loài người trải qua những phương thức sản xuất từ thấp đến cao dẫn đến sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội. Thực tiễn sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay 1. Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta trước đổi mới (trước 1986) Nước ta vốn là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải chịu nhiều hậu quả nặng nề do hai cuộc chiến tranh kéo dài để lại nên trước thời kỳ đổi mới nước ta là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản xuất tự cấp tự túc, thêm vào đó nước ta bị đế quốc Mĩ bao vây cấm vận về nhiều mặt, nhất là về kinh tế. Do vậy, lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp kém và chưa có điều kiện phát triển. Trình độ người lao động rất thấp, hầu hết không có chuyên môn tay nghề, phần lớn phần lớn lao động chưa qua đào tạo nghề tạo. Lao động Việt Nam phần lớn tập trung vào khu vực kinh tế nông nghiệp, họ lao động sản xuất chủ yếu dựa trên kinh nghiệm sản xuất mà cha ông để lại. Tuy nhiên, trình độ người lao động có sự phân hóa giữa các vùng miền: các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh… người lao động có trình độ cao hơn các vùng khác trên cả nước. Là một nước nông nghiệp lạc hậu nên tư liệu sản xuất mà nhất là công cụ lao động ở nước ta thời kì này còn thô sơ, tụt hậu. Trong nông nghiệp công cụ lao động chủ yếu là cái cày, cái cuốc, theo hình thức “ con trâu đi trước cái cày theo sau” ; trong công nghiệp máy móc thiết bị còn ít và rất lạc hậu. Hơn nữa phát triển của công cụ lao động cũng có sự phân hóa giữa các vùng, miền khác nhau. Như vậy, nhìn chung,trước đổi mới lực lượng sản xuất ở Việt Nam rất thấp kém, lạc hậu, tụt hậu và phát triển không đồng đều. Trong khi đó Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, “ thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động”.( Điều 18 Hiến pháp 1980). Các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân không được Nhà nước thừa nhận. Do chưa nhận thức đúng về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, trong cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới, nước ta đã ra sức vận động thậm chí có nơi cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã làm ăn. Đồng thời cùng với việc xây dựng hợp tác xã có quy mô từ thấp tới cao chúng ta đã mở rộng và phát triển các nông trường quốc doanh, các nhà máy các xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ của lực lượng sản xuất còn đang thấp kém. Mặt khác chúng ta đã ngộ nhận là khi xây dựng một quan hệ sản xuất mới, tiến bộ sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất . Nước ta đã nhầm lẫn khi nhấn mạnh quá mức sở hữu tư liệu sản xuất theo hướng tập thể hóa cho đó là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới, bởi vậy đã dẫn đến tình trạng biệt lập người lao động với đối tượng lao động chủ yếu của họ. thực tế nhiều năm qua đã chứng minh quan điểm đó là sai lầm. Sai lầm ở chỗ chúng ta đã đẩy một số mặt của quan hệ sản xuất lên quá cao, quá xa làm cho nó tách rời lực lượng sản xuất. Chúng ta đã ra sức xây dựng lực lượng sản xuất một cách khẩn trương bằng cách đưa các thiết bị máy móc mới vào các xí nghiệp nông nghiệp còn non yếu nhằm xây dựng lâu dài mô hình công nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện mà không tính đến khả năng quản lý và tổ chức sử dụng của nông dân cũng như khả năng lãnh đạo của ban quản lý hợp tác xã. Trong lực lượng sản xuất chúng ta chỉ chú ý đến tư liệu sản xuất một cách thuần túy mà không chú ý đến yếu tố người lao động cả về trình độ và thái độ lao động. Bản thân con người là yếu tố quan trọng nhất, là yếu tố mang tính quyết định đã trở thành thực thể thụ động trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Một sai lầm cơ bản nữa là nước ta đã xóa bỏ quá sớm quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa khi kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta chưa đủ sức thay thế. Điều này ảnh hưởng không tốt đến lực lượng sản xuất và mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội Như vậy, trong khi lực lượng sản xuất rất thấp kém và không đồng đều Nhà nước ta lại duy trì quan hệ sản xuất quá cao chứng tỏ Nhà nước ta chưa nhận thức đúng và chưa vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thực tiễn đất nước lúc bấy giờ. Vì vậy nước ta đã phải “ trả giá”:trước đổi mới kinh tế đất nước vô cùng khó khăn, kiệt quệ, đời sống vật chất của người dân vô cùng đói kém Từ 1977 đến 1979, việc triển khai Nghị quyết Đại hội IV vấp váp và tổn thất trên tất cả các mặt công nghiệp hoá, cải tạo công thương nghiệp, hợp tác hoá nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý. Sản xuất bị kìm hãm, đời sống nhân dân đi xuống nhanh chóng, nhất là ở phía Nam. Đến cuối năm 1985 kinh tế nước ta ngày càng trở nên khó khăn (tháng 12-1986, giá bán lẻ hàng hoá tăng 845,3%), . sản xuất phát triển chậm (tốc độ tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới 1%/năm); năng suất lao động quá thấp. Nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Chúng ta không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn, đời sống nhân dân thiếu thốn, nhiều hiện tượng trong xã hội có tính tiêu cực nghiêm trọng. Như vậy, tình hình kinh tế - xã hội nước ta gặp những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn… Nhận thức được những sai lầm của mình trong việc áp dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất Đảng và Nhà nước ta đã có những thay đổi trong việc xác định lại quan hệ sản xuất ở nước ta. Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay Từ sau khi đổi mới, lực lượng sản xuất ở Việt Nam không ngừng phát triển. Trình độ chuyên môn của người lao động ngày càng được nâng cao số lao động đã qua đào tạo ngày càng tăng. Năm 2005, lực lượng lao động cả nước đạt 44.385 nghìn người.Về chất lượng lao động, nếu như năm 1996, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo là 12,3% thì đến năm 2005 là 24,79%, như vậy số lao động đã qua đào tạo tăng 2,5 lần. … Hệ thống trường dạy nghề ngày càng được mở rộng góp phần nâng cao trình độ người lao động. Theo báo cáo của Tổng cục Dạy nghề (Bộ LĐ-TB&XH),hiện nay cả nước có gần 3.000 cơ sở đào tạo nghề gồm trường cao đẳng, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề, cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, các hội nghề nghiệp, đoàn thể, làng nghề. Bên cạnh đó, ở Việt Nam những năm gần đây đội ngũ trí thức tăng nhanh, chỉ tính riêng số sinh viên cũng đã cho thấy sự tăng nhanh vượt bậc. Năm 2003-2004 tổng số sinh viên đại học và cao đẳng là 1.131.030 sinh viên đến năm 2007- 2008 tăng lên 1.603.484 sinh viên. Năm 2008 tổng số sinh viên ra trường là 233.966 trong đó sinh viên tốt nghiệp đại học là 152.272; sinh viên tốt nghiệp cao đẳng là 81.694. Số trí thức có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cũng tăng nhanh.Theo thống kê cả nuớc đến 2008 có hơn 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học và đang đặt mục tiêu trong 10 năm tới sẽ có 20000 tiến sĩ. Năm 2008 nước ta có 275 trường Trung cấp chuyên nghiệp, 209 trường cao đẳng, 160 trường Đại học và có tới 27.900 trường phổ thông, 226 trường dân tộc nội trú… Nhìn vào những con số này cho thấy trình độ người lao động ở nước ta ngày càng được nâng cao và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Nhìn chung, trong 5 năm trở lại đây, dạy nghề đã từng bước đáp ứng được nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề cho các doanh nghiệp và thị trường lao động. Người lao động có thể đảm nhận được những công việc chủ chốt trong sản xuất, kể cả những ngành công nghệ cao, góp phần tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn có một thực tế là :"Kỹ năng nghề nghiệp cũng như học vấn của người lao động trong các doanh nghiệp còn thấp. Khoảng 18% chất lượng nguồn nhân lực (về tay nghề, kỹ năng mềm) là rất thấp. Mặc dù chất lượng nguồn lao động ngày càng được nâng cao nhưng vẫ chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển của đất nước. Tâm lý trọng đại học, lơ là trường nghề đã tạo ra sự mất cân đối trong đào tạo nhân lực xã hội dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ. Chỉ với gần 30% số lao động đã qua đào tạo phản ánh một thực tế là nền kinh tế đang thiếu trầm trọng LĐ có tay nghề; hệ thống giáo dục, định hướng nghề nghiệp vẫn có nhiều vấn đề. Qua đó cho thấy, tâm lý coi trọng bằng cấp còn bám rễ quá sâu trong đại bộ phận nhân dân. Việt Nam đang thiếu lực lượng lao động có tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam thấp so với các nước vùng lân cận; chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới. Máy móc các trang thiết bị hiện đại ngày càng được sử dụng rộng rãi trong tất cả các ngành kinh tế. Trong nông nghiệp các loại máy cấy, máy cấy, máy gặt, máy tuốt lúa… đã xuất hiện và ngày càng được sử dụng rộng rãi. Cùng với đó chất lượng các loại giống cây trồng vật nuôi ngày càng được nâng cao. Trong công nghiệp, việc ứng dụng những công nghệ mới cũng được đẩy mạnh như ứng dụng kỹ thuật hạt nhân… Đồng thời hệ thống điện, đường, trường, trạm cũng từng bước được hoàn thiện. Tuy nhiên tư liệu sản xuất ở nước ta còn thấp kém so với thế giới chất lượng và hiệu quả chưa thật sự cao và còn có sự phân hóa giữa các vùng trong nước. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, có gần 75% doanh nghiệp (DN) nước ta nhập khẩu máy móc, thiết bị từ Trung Quốc. Bên cạnh những thiết bị mới, công nghệ hiện đại, do ham rẻ, nhiều DN đã nhập thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu, kém hiệu quả… Như vậy,lực lượng sản xuất ở nước ta đã phát triển hơn nhưng vẫn thấp kém, lạc hậu và không đều. Do đó sự sở hữu về tư liệu sản xuất của mỗi người trong xã hội là không đều Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 Đảng và Nhà nước đã xác định lại các quan hệ sản xuất ở nước ta. Bằng đường lối, chính sách pháp luật bước đầu đúng đắn Nhà nước cho phép tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”. ( Điều 15 Hiến pháp 1992) Ở nước ta hiện nay, trình độ lực lượng sản xuất còn thấp lại không đồng đều giữa các ngành nghề, các vùng miền. Có những vùng người dân vẫn sử dụng những công cụ lao động thô sơ như cái cuốc, con trâu… để tiến hành sản xuất nhưng cũng có nơi lao động trong các phòng thí nghiệm, các khu công nghệ cao. Vì vậy việc xác định tồn tại đồng thời nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là một định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta phù hợp với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhờ bước đầu vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất nên tình hình đất nước đã có nhiều khởi sắc Trải qua chặng đường dài ¼ thế kỷ, công cuộc đổi mới ở nước ta đã thu được những thành tựu mang ý nghĩa lịch sử, đưa nước ta thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp, hội nhập vào khối quốc gia có thu nhập trung bình trên trế giới. Nhờ đó, thế và lực Việt Nam trên trường quốc tế đang dâng cao chưa từng thấy. 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm, 1991-1995: nền kinh tế khắc phục được tình trạng trình trệ, suy thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện.GDP bình quân năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Từ năm 1996-2000 tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm. Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu. Công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng cao, có bước chuyển biến tích cực về cơ cấu sản Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế., kinh tế hợp tác xã phát triển ngày càng đa dạng, hoạt động ngày càng có hiệu quả, kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế Công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến năm 2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt 80%. Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên khoảng 640 USD năm 2005. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống dưới 7% năm 2005. Theo chuẩn quốc tế (1 USD/người/ngày) thì tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 28,9
Luận văn liên quan