Hiện nay,nước ta đang thực hiện bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội với nhiều nội dung chuyển đổi về kinh tế – chính trị văn hoá xã hội. Để đạt được mục tiêu đưa nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp chúng ta cần thực hiện đồng thời nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy các ngành kinh tế tăng trưởng phù hợp với chiến lược phát triển mà Đảng đã ra.Trong đó nước ta vẫn chủ yếu dựa vào các ngành nông- lâm- ngư nghiệp vốn là thế mạnh của chúng ta trên trường quốc tế.Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp (nông nghiệp,lâm nghiệp, thuỷ sản) nước ta liên tiếp thu được nhiều thành tựu to lớn. Thành tựu lớn nhất là trong một thời gian không dài, từ một nền nông nghiệp tự cấp, tự túc,lạc hậu vươn lên trở thành một nền nông nghiệp hàng hoá, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia và có tỉ suất hàng hoá ngày càng lớn có vị thế đáng kể trong khu vực và thế giới. Nước ta đã trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu 4 mặt hàng: gạo, cà phê, điều, hạt tiêu. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, thuỷ sản là ngành có khả năng trở thành ngành sản xuất có lợi thế lớn nhất của nền nông nghiệp Việt Nam. Trong 40 năm qua, ngành thuỷ sản luôn giữ xu thế tăng trưởng không ngừng về năng lực sản xuất, sản lượng và giá trị. Kim ngạch xuất khẩu có mức tăng trưởng tương đối cao (22-23%/ năm). Năm 1997, kim ngạch sản xuất đạt 776 triệu USD, năm 1998 đạt 850 triệu USD, năm 1999 đạt 950 triệu USD, năm 2000 đạt 1,45 tỷ USD và năm 2001 đạt 1,76 tỷ USD đứng thứ 2 trong các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam trong đó phải kể đến sự đóng góp to lớn của một số công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản như: Tổng công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản (Seaprodex) và các công ty thành viên, công ty xuất nhập khẩu thủy sản An Giang (Agifish) để tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước Chính phủ Việt Nam đã đề ra một số biện pháp hỗ trợ trong đó có việc ra Nghị quyết số 09/2000/NQ- CP của Chính phủ ngày15 tháng 6 năm 2000 về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Trong phạm vi bài viết này, em xin được trình bày những tác động của Nghị quyết số 09/2000/NQ – CP đối với hoạt động xuất nhập khẩu thủy sản của công ty Seaprodex Việt Nam.
22 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1798 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của NQ- 09/2000/ NQ- CP tới công ty Seaprodex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Hiện nay,nước ta đang thực hiện bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội với nhiều nội dung chuyển đổi về kinh tế – chính trị văn hoá xã hội. Để đạt được mục tiêu đưa nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp chúng ta cần thực hiện đồng thời nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy các ngành kinh tế tăng trưởng phù hợp với chiến lược phát triển mà Đảng đã ra.Trong đó nước ta vẫn chủ yếu dựa vào các ngành nông- lâm- ngư nghiệp vốn là thế mạnh của chúng ta trên trường quốc tế.Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp (nông nghiệp,lâm nghiệp, thuỷ sản) nước ta liên tiếp thu được nhiều thành tựu to lớn. Thành tựu lớn nhất là trong một thời gian không dài, từ một nền nông nghiệp tự cấp, tự túc,lạc hậu vươn lên trở thành một nền nông nghiệp hàng hoá, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia và có tỉ suất hàng hoá ngày càng lớn có vị thế đáng kể trong khu vực và thế giới. Nước ta đã trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu 4 mặt hàng: gạo, cà phê, điều, hạt tiêu. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, thuỷ sản là ngành có khả năng trở thành ngành sản xuất có lợi thế lớn nhất của nền nông nghiệp Việt Nam. Trong 40 năm qua, ngành thuỷ sản luôn giữ xu thế tăng trưởng không ngừng về năng lực sản xuất, sản lượng và giá trị. Kim ngạch xuất khẩu có mức tăng trưởng tương đối cao (22-23%/ năm). Năm 1997, kim ngạch sản xuất đạt 776 triệu USD, năm 1998 đạt 850 triệu USD, năm 1999 đạt 950 triệu USD, năm 2000 đạt 1,45 tỷ USD và năm 2001 đạt 1,76 tỷ USD đứng thứ 2 trong các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam trong đó phải kể đến sự đóng góp to lớn của một số công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản như: Tổng công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản (Seaprodex) và các công ty thành viên, công ty xuất nhập khẩu thủy sản An Giang (Agifish)… để tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước Chính phủ Việt Nam đã đề ra một số biện pháp hỗ trợ trong đó có việc ra Nghị quyết số 09/2000/NQ- CP của Chính phủ ngày15 tháng 6 năm 2000 về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Trong phạm vi bài viết này, em xin được trình bày những tác động của Nghị quyết số 09/2000/NQ – CP đối với hoạt động xuất nhập khẩu thủy sản của công ty Seaprodex Việt Nam.
Đề tài: Tác động của NQ- 09/2000/ NQ- CP tới công ty Seaprodex
I.Hoàn cảnh ra đời của Nghị quyết 09/2000/NQ-CP.
1.Hoạt động của công ty Seaprodex trước khi có Nghị quyết .
Tổng công ty thuỷ sản Việt Nam –công ty Seaprodex -được thành lập vào năm 1978, kể từ đó đến nay công ty luôn là doanh nghiệp hàng đầu của ngành thuỷ sản Việt Nam cả về năng lực sản xuất, sản lượng và giá trị xuất khẩu. Tính đến năm 2000, công ty có 17 nhà máy chế biến thuỷ sản đông lạnh xuất khẩu, trong đó 13 nhà máy chế biến hải sản đông lạnh xuất khẩu với tổng công suất 200 tấn/ ngày, 4 nhà máy chế biến thuỷ sản tiêu thụ nội địa ( sản xuất nước mắm, bột cá, thức ăn gia súc) với tổng công suất 12000 tấn/ năm. Ngoài ra, công ty còn có hệ thống kho thành phẩm với sức chứa 10000 tấn, kho nước đá 300 tấn, 50 chiếc xe lạnh, 89 xe bảo ôn. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của công ty trong giai đoạn 1990- 2000 đã không ngừng tăng lên với tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 17,3 %/ năm.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của công ty Seaprodex Việt Nam 1990 –2000.
Đơn vị: triệu USD
Chỉ tiêu
Năm
KNXK của cả nước
KNXK thuỷ sản
KNXK của công ty
Tỷ trọng (%)
1990
2404
239,1
35,2
14,7
1991
2087
285,4
39,6
13,9
1992
2591
307,7
44
14,3
1993
2985
427,2
48,4
11,3
1994
4054
551,2
52,8
9,58
1995
5449
621,4
57,2
9,20
1996
7256
969,6
65,8
6,79
1997
9145
776,4
74,5
9,59
1998
9361
858,6
83,2
9,69
1999
11523
971,1
127,1
13,09
2000
14300
1450
174
12,0
Nguồn: Niên giám thống kê 1996; kinh tế 1998-1999 và 2000- 2001 Việt Nam và thế giới ( thời báo kinh tế Việt Nam); bản tin thương mại thuỷ sản tháng 1 năm 2000.
Như vậy, ta có thể thấy kim ngạch xuất khẩu của công ty chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước với tốc độ tăng trưởng tương đối cao và bền vững. Đặc biệt năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của công ty đạt 174 triệu USD, bằng 137,6% so với cùng kì; thị trường xuất khẩu mở rộng ra hơn 30 quốc gia; một số doanh nghiệp thành viên đã tăng kim ngạch xuất khẩu trên 10 triệu USD/ năm so với năm 1999.
Tuy là doanh nghiệp có tiềm lực mạnh trong ngành thuỷ sản Việt Nam nhưng trong thời gian qua công ty gặp không ít khó khăn, cũng như đa số các công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam. Đó là công nghệ chế biến còn lạc hậu và chưa phù hợp với nguồn nguyên liệu sẵn có ở Việt Nam; nguồn cung cấp nguyên liệu cho sản xuất hàng thuỷ sản xuất khẩu không ổn định và chất lượng nguyên liệu chưa đảm bảo; hoạt động marketing đặc biệt là hoạt động xúc tiến thương mại còn yếu kém.
Đối với công ty Seaprodex, đa số các nhà máy chế biến thuỷ sản đông lạnh của công ty đều được xây dựng từ trước năm 1975. Những năm gần đây, tuy được đầu tư nâng cấp nhưng chưa đồng bộ. Vì vậy, hầu hết năng lực chế biến của các nhà máy chỉ đạt 65- 70 % công suất thiết kế, bởi ngành công nghiệp thuỷ sản mang đậm tính chất mùa vụ và chưa được đầu tư đổi mới công nghệ kịp thời. Từ năm 1990 đến 1998 công ty đã đầu tư 4,7 triệu USD cho các cơ sở chế biến thuỷ sản, trong đó vốn tín dụng 700.000USD còn lại là vốn tự có. Kèm theo đó công ty còn lập phương án quy hoạch, nâng cấp hàng thuỷ sản xuất khẩu của công ty Seaprodex Minh Hải tại Bạc Liêu, Seaprodex miền trung tại Đà Nẵng, Seaprodex Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, với tổng nhu cầu đầu tư cho các công trình trên dự kiến là 250 tỷ đồng. Ngoài ra, để khắc phục những khó khăn trên Seaprodex Việt Nam đã xác định 2 vấn đề cơ bản là xây dựng định hướng chiến lược và ổn định các doanh nghiệp thành viên. Cùng với việc đầu tư nâng cấp các nhà máy chế biến thuỷ sản đông lạnh xuất khẩu, công ty còn xác định lợi thế của từng doanh nghiệp thành viên, xác định các vùng sản xuất trọng điểm, doanh nghiệp trọng điểm để xây dựng mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên và các biện pháp thực hiện nhiệm vụ. Ví dụ, năm 1999 công ty đã xác định khu vực miền Tây có lợi thế phát triển sản xuất, trong đó lấy Seaprodex Minh Hải là trọng điểm sản xuất và xuất khẩu. Việc xác định doanh nghiệp trọng điểm đã tạo nên động lực mạnh thúc đẩy doanh nghiệp này phát triển; ở Seaprodex Minh Hải đã tăng từ 18 triệu USD năm 1998 lên 31 triệu USD năm 2000, chiếm tỷ trọng giá trị chế biến cao nhất ( 25,76%) trong toàn công ty. Có thể nói định hướng của công ty Seaprodex là tiền đề, là động lực mạnh mẽ để mỗi doanh nghiệp thành viên tăng cường đẩy mạnh xuất khẩu. Bên cạnh việc chủ động xây dựng định hướng đúng là việc ổn định các doanh nghiệp thành viên để củng cố thực lực mỗi thành viên và tạo sức mạnh của toàn công ty. Doanh nghiệp phấn đấu không phải chỉ là để năm sau cao hơn năm trước, mà còn để xứng đáng với uy tín công ty Seaprodex Việt Nam.
Ngoài ra, nguồn cung cấp nguyên liệu cho sản xuất hàng thuỷ sản xuất khẩu không ổn định và chất lượng nguyên liệu chưa đảm bảo cũng là khó khăn cho toàn bộ các công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam nói chung cũng như công ty Seaprodex nói riêng. Trên thực tế, theo báo cáo của Bộ Thương mại gần như toàn bộ các nhà máy chế biến thuỷ sản của nước ta đều dựa vào nguồn nguyên liệu khai thác tự nhiên, lệ thuộc vào thiên nhiên do nuôi trồng chưa phát triển và trở thành nguồn cung cấp ổn định. Phụ thuộc vào thiên nhiên và tính chất mùa vụ của các loài hải sản nhiệt đới cùng với điều kiện kết cấu hạ tầng cho việc khai thác ( như đội tàu và kỹ thuật viên, hệ thống cảng và chợ chuyên dụng…) chưa phát triển tương ứng đã làm cho chất lượng nguyên liệu không cao và không ổn định. Đó là do Việt Nam hiện nay, khai thác thuỷ hải sản tự nhiên chủ yếu được thực hiện bằng đội tầu có kích cỡ nhỏ của ngư dân, rất khó có điều kiện áp dụng công nghệ mới hiện đại trong việc bảo quản sau thu hoạch (như các khoang sơ chế tại tàu, các hầm lạnh cỡ lớn đảm bảo chất lượng nguyên liệu cho các chuyến đánh bắt xa bờ dài ngày).
Đối với các công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam thì đó vẫn chưa phải là khó khăn cuối cùng, mà các công ty của Việt Nam còn yếu kém trong khâu marketing đặc biệt là hoạt động xúc tiến thương mại. Trong điều kiện hiện nay, để có thể thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải tạo ra sản phẩm tốt giá thành hạ, các dịch vụ cung cấp sản phẩm đến khách hàng thuận tiện đồng thời họ cũng phải đặc biệt quan tâm đến hoạt động xúc tiến thương mại. Bởi vì nếu sản phẩm ít được khách hàng biết đến, không được phân phối hợp lý, không hiểu rõ về đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp rất khó giành vị thế thắng cuộc trong thương trường. Thực tế cho thấy, các hoạt động như nghiên cứu thị trường, quảng cáo… kể cả thị trường nội địa hầu như chưa được các doanh nghiệp sản xuất hàng thuỷ sản Việt Nam lưu tâm thực hiện. Việc tiêu thụ sản phẩm chủ yếu dựa trên các quan hệ truyền thống, chờ khách hàng tìm đến. Thêm vào đó, việc hỗ trợ của các cơ quan quản lý Nhà nước( Bộ Thuỷ sản, Bộ Thương mại…) trong cung cấp thông tin thị trường, tổ chức hội chợ, giới thiệu sản phẩm Việt Nam đến khách hàng thông qua các văn phòng đại diện ở nước ngoài… chưa được thực hiện một cách thường xuyên.
Như vậy, trong hoàn cảnh các công ty xuât nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam nói chung và công ty Seaprodex nói riêng điều gặp những khó khăn như trên, nên chăng các cơ quan quản lý Nhà nước cần đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm tháo gỡ những khó khăn trên. Trước tình hình đó Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 09/2000/ NQ- CP ngày 15/6/2000 về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp nhằm giải quyết một số vấn đề khó khăn đối với ngành thuỷ sản Việt Nam. Kèm theo đó Bộ Thuỷ sản cũng ra thông tư số 05/2000/ TT- BTS ngày 3/11/2000 hướng dẫn thực hiện Nghị quyết trên.
2.Một số nội dung chính của Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP.
Theo đánh giá của các chuyên gia, thuỷ sản là ngành sản xuất sản phẩm đạm động vật có nhu cầu ngày càng tăng ở thị trường trong nước và xuất khẩu lớn, có khả năng trở thành ngành sản xuất có lợi thế lớn nhất của ngành nông nghiệp Việt Nam. Sản lượng thủy sản đạt 3- 3,5 triệu tấn/năm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước, nâng kim ngạch xuất khẩu vươn lên hàng đầu trong khu vực châu á. Chính phủ đã đưa ra một số chủ trương, chính sách để tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm thủy sản, thúc đẩy sản xuất phát triển như sau:
a.ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học- công nghệ mới vào sản xuất thuỷ sản.
Về nuôi trồng thuỷ sản, điều tra nghiên cứu, lập kế hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên các loại hình mặt nước thuộc các vùng nước mặn, lợ và ngọt. Các Viện nghiên cứu nuôi trông thuỷ sản I, II và Trung tâm khuyến ngư các tỉnh phối hợp với các cơ quan nghiên cứu và đào tạo ngoài ngành liên quan tổ chức để chuyển giao các công nghệ sinh học cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất thuỷ sản nhằm khai thác sử dụng có hiệu quả các loại đất, mặt nước.
Về khai thác thuỷ sản, nghiên cứu điều tra xác định nguồn lợi hải sản vùng xa bờ, các vùng hải sản trọng điểm, phân bố tập trung, tập tính sinh học, quy luật di cư và biến động của các đối tượng khai thác. Nghiên cứu cải tiến một số nghề khai thác hải sản ven bờ quan trọng hiện có, tiến hành trang bị máy định vị, máy dò cá…Đối với công nghệ khai thác hải sản xa bờ, tăng cường nghiên cứu cải tiến kết cấu ngư cụ, phương pháp đánh bắt và một số công nghệ của nước ngoài để khai thác các loại thuỷ-hải sản.
Về chế biến thuỷ sản, nhập khẩu công nghệ chế biến, đa dạng hoá mặt hàng để nâng cao giá trị của sản phẩm đông lạnh. Đồng thời đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân, nhập khẩu công nghệ đông rời (IQF) có công suất thích hợp với từng vùng nguyên liệu.
b.Tạo thêm các nguồn lực phát triển kinh tế thuỷ sản .
Tổ chức thực hiện tốt những chính sách về đất đai theo quy định của luật đất đai, giao quyền sử dụng đất mặt nước bãi bồi, bãi cát ven biển, hải đảo, đầm phá, hồ chứa, sông lớn vẫn còn bỏ hoang ít sử dụng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
Tăng cường hợp tác liên doanh liên kết, thành lập các hội nghề nghiệp giữa các hộ sản xuất, các chủ trang trại, các thành phần kinh tế để mở rộng quy mô, tăng khả năng đầu tư vốn, thu hút lao động sản xuất ra hàng hoá thuỷ sản có giá trị kinh tế, gắn kết sản xuất- xây dựng cơ sở chế biến thuỷ sản với việc giao lưu mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước.
c.Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản.
Phải tăng cường công tác thông tin thị trường, nâng cao khả năng tiếp thị; gắn thị trường với sản phẩm, thị trường nước ngoài với thị trường trong nước, gắn hợp tác thương mại, quan hệ đối ngoại với trao đổi buôn bán xuất khẩu hàng hoá thuỷ sản. Gắn chất lượng hàng hoá, mẫu mã và đa dạng hoá sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm thuỷ sản, với yêu cầu thị hiếu của khách hàng nhập khẩu (nhất là thị trường Mĩ, Nhật Bản, EU…).
Tạo điều kiện để các cơ quan đại diện của nước ngoài tiếp xúc với các nhà doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp thuỷ sản trong nước; đại diện ngoại giao và tham tán thương mại Việt Nam ở nước ngoài nắm bắt được những thông tin, giới thiệu và nâng cao vị thế các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam với bàn bè Quốc tế.
II. Đánh giá tác động của Nghị quyết số 09/2000/NQ–CP tới hoạt động xuất nhập khẩu của công ty Seaprodex.
1.Tác động của Nghị quyết tới ngành thuỷ sản Việt Nam.
Khi nói đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành thuỷ sản hai năm vừa qua, nhiều khi người ta liên tưởng trước hết đến lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản. Điều này có phần dễ hiểu vì từ cuối năm 2000 và nhất là trong năm 2001, sự chuyển dịch mục tiêu sử dụng đất nông nghiệp từ trồng lúa, làm muối, trồng cói kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản đã diễn ra rộng khắp ở các tỉnh ven biển, gây nên tiếng vang lớn trong cả nước. Song trên thực tế, quá trình này diễn ra ở mọi lĩnh vực hoạt động của ngành và trong mọi thành tựu mà ngành thuỷ sản thu lượm được đều mang đậm dấu ấn của quá trình đó.
Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu năm 2001
Tổng sản lượng: 2.300.000 tấn
Sản lượng khai thác: 1.350.000 tấn
Sản lượng nuôi và khai thác nội địa: 950.000 tấn
Diện tích mặt nước sử dụng để nuôi thuỷ sản: 887.500 ha
Kim ngạch xuất khẩu : 1,7 tỷUSD
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản: 5.913 tỷ đồng
Nộp ngân sách nhà nước: 1.105 tỷ đồng
Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2001 và chỉ tiêu biện pháp thực hiện ké hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2002, Bộ thuỷ sản.
Về lĩnh vực khai thác thuỷ sản, theo tinh thần của Nghị quyết, thì cần nghiên cứu điều tra xác định nguồn lợi hải sản vùng xa bờ, vùng hải sản trọng điểm, đồng thời tăng cường nghiên cứu cải tiến kết cấu ngư cụ, phương pháp đánh bắt và nhập một số công nghệ nước ngoài để áp dụng vào khai thác hải sản xa bờ. Thực tế hoạt động của năm 2001, trong tổng sản lượng hải sản khai thác 1,35 triệu tấn đã có 456.000 tấn được đánh bắt trong vùng biển xa bờ, chiếm 33% tổng số, trong đó sản phẩm làm nguyên liệu xuất khẩu chiếm 30%. Đó chính là kết quả hoạt động của đội tàu đánh cá xa bờ hơn 6000 chiếc với năng suất khai thác tương đối cao (0,45 tấn/CV) gấp rưỡi so với các tàu đánh cá ven bờ ( 0,32 tấn/ CV). Năm 2001 cũng là lần đầu tiên chúng ta thử nghiệm thuê tàu trần và chuyên gia của nước ngoài để tham gia khai thác trên biển.
Còn trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản, sự chuyển dịch phải nói là “rầm rộ”. Theo định hướng của Nghị quyết 09/2000/NQ –CP để phát triển mạnh mẽ nuôi trồng thuỷ sản trước hết phải quy hoạch lại cơ cấu sử dụng đất đai. Những vùng đất có điều kiện đưa nước mặn vào và đủ điều kiện nuôi thuỷ sản thì khuyến khích nông dân chuyển đổi sang nuôi tôm và các loại thuỷ-hải sản. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện sinh thái, môi trường, thổ nhưỡng…của từng vùng và địa phương mà có phương thức tổ chức nuôi trông phù hợp như: thâm canh, bán thâm canh…Đồng thời giao cho các cơ quan có thẩm quyền trong ngành lập quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên các loại hình mặt nước và nghiên cứu phát triển giống thuỷ sản, các loại vắc xin nhằm nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản. Thực hiện nghị quyết, nhân dân ở hầu hết các tỉnh ven biển đã tiến hành chuyển đổi vùng đất nhiễm mặn trồng lúa, trồng cói, làm muối và vùng đất cát khô cằn sang nuôi trồng thuỷ sản, mà chủ yếu là nuôi tôm. Tổng diện tích chuyển đổi ở vùng ven biển đã lên tới trên 220.000 ha đưa tổng diện tích mặt nước sử dụng để nuôi thuỷ sản năm 2001 lên 887.500 ha. Diện tích chuyển đổi này đã góp phần quan trọng trong số 60.000 tấn tôm nuôi tăng thêm, nâng tổng sản lượng tôm nuôi lên gần 160.000 tấn, cao gấp rưỡi so với năm 2000. Đặc biệt, mô hình nuôi luân canh tôm- lúa đã đem lại hiệu quả cao và bền vững ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong các vùng nước ngọt, tuy không sôi động như các vùng ven biển những quá trình chuyển dịch cũng diễn ra với quy mô không kém, với việc sử dụng các diện tích mặt nước, hồ chứa, sông, ao, hồ nhỏ, ruộng lúa để nuôi tôm càng xanh, cá chim trắng và nhiều loài cá có giá trị cao khác. Ngoài ra còn có một điểm cần nhấn mạnh ở đây là vai trò của công tác sản xuất giống đối với kết quả cuả hoạt động nuôi thuỷ sản. Trước đây, giống thuỷ sản nuôi chủ yếu được sản xuất ở một số tỉnh Nam Trung Bộ, nhưng trong năm 2001 năng lực sản xuất giống thuỷ sản đã tăng trưởng một cách vượt bậc. Các tỉnh phía Bắc và Nam Bộ vốn được coi là không có năng lực sản xuất giống cũng đã tự sản xuất được một tỉ lệ đáng kể phục vụ cho nhu cầu thả nuôi của mình.
Đối với công tác thị trường ngoài nước, nghị quyết chủ trương đẩy mạnh quan hệ hợp tác thương mại với các nước, gắn quan hệ đối ngoại với xuất khẩu thuỷ sản. Tiếp tục mở rộng cam kết song phương và đa phương cấp Chính phủ về xuất khẩu thuỷ sản. Mở rộng diện mặt hàng nông sản trong danh mục trả nợ hàng nước ngoài. Tăng cường quyền hạn; trách nhiệm và tạo điều kiện để các cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại Việt Nam ở nước ngoài tham gia tìm kiếm thị trường xuất khẩu nông sản nói chung và thuỷ sản nói riêng. Với sự hỗ trợ của Chính phủ, Bộ Thuỷ sản và sự nỗ lực của riêng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam, chúng ta đã tạo được chỗ đứng ngày càng rộng lớn ở Mĩ, Nhật Bản và đang tiến sâu hơn vào Trung Quốc, một thị trường có tiềm năng to lớn. Sản phẩm thuỷ sản mang nguồn gốc Việt Nam đã được thừa nhận và khẳng định và thừa nhận vị trí trên các thị trường thuỷ sản hàng đầu thế giới.
Những thành tựu trong hoạt động khai thác và nuôi trồng, cộng với sự chuyển mình mạnh mẽ của các doanh nghiệp đã tạo nên thành tích to lớn trong lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản. Năm 2001, xuất khẩu thuỷ sản đạt giá trị 1,76 tỉ USD, chiếm gần 40 % kim ngạch xuất khẩu của cả khối nông nghiệp và trên 12% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đứng thứ ba sau ngành dầu khí và dệt may. Năm 2002, tính đến hết quý II, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đã đạt trên 880 triệu USD. Kết quả trên thật sự rất đáng khích lệ, đặc biệt đặt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu, đây là thời kì mà nền kinh tế thế giới có thể nói là lâm vào cơn suy thoái, làm lung lay đến cả nền kinh tế của cường quốc số 1- nước Mĩ- sau thời kì 10 năm tăng trưởng ngoạn mục. Với tốc độ phát triển như trong những năm gần đây, ngành thuỷ sản Việt Nam có rất nhiều cơ hội để đạt được mục tiêu kinh tế- xã hội như theo tinh thần của Nghị quyết:
Tổng sản lượng thuỷ sản năm 2005 đạt 2.450.000 tấn, năm 2010 đạt 3.400.000 tấn.
Trong đó:
+ Khai thác hải sản năm 2005 đạt 1.300.000 tấn, năm 2010 đạt 1.400.000 tấn
+ Nuôi trồng thuỷ sản 2005 đạt 1.150.000 tấn, năm 2010 đạt 2.000.000 tấn
Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt 2,5 tỉ USD, năm 2010 đạt 3,5 tỉ USD.
Thu hút lao động năm 2005 là 4 triệu người, năm 2010 là 4,4triệu người.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh, mạnh của ngành thuỷ sản trong hơn một năm qua vẫn còn tồn đọng một số mặt hạn chế. Thứ nhất, đó là tình trạng tự phát trong sản xuất, thể hiện rõ nhất qua quá trình chuyển mục đích sử dụng diện tích canh tác sang nuôi thuỷ sản ở các tỉnh Nam Bộ. Thứ hai, trong quan