Đề tài Tài nguyên đất và môi trường đất

I.Sơ lược tài nguyên đất 1.1. Khái niệm Đất là một dạng tài nguyên vật liệu của con người. Đất là lớp ngoài cùng của thạch quyển bị biến đổi tự nhiên dưới tác động tổng hợp của nước, không khí, sinh vật. Đất có 2 nghĩa: đất đai là nơi ở, xây dựng cơ sở hạ tầng của con người và thổ nhưỡng là mặt bằng để sản xuất nông lâm nghiệp. .Đất hiểu theo nghĩa thông thường nhất là phần mỏng nằm trên bề mặt của trái đất mà không bị nước bao phủ. . Đất theo nghĩa thổ nhưỡng là vật thể thiên nhiên có cấu tạo độc lập lâu đời, hình thành do kết quả của nhiều yếu tố:đá gốc, động thực vật, khí hậu, địa hình và thời gian. .Giá trị tài nguyên đất được đo bằng số lượng diện tích(ha,km2) và độ phì (độ dầu ,ỡ thích hợp cho trồng cây công nghiệp và lương thực).

docx27 trang | Chia sẻ: thanhlinh222 | Lượt xem: 12548 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tài nguyên đất và môi trường đất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ KHOA HÓA- LÝ KỸ THUẬT *********** HÓA HỌC MÔI TRƯỜNG CHỦĐỀ: TÀI NGUYÊN ĐẤT VÀ MÔI TRƯỜNG ĐẤT MỤC LỤC I.Sơ lược tài nguyên đất 1.1. Khái niệm Đất là một dạng tài nguyên vật liệu của con người. Đất là lớp ngoài cùng của thạch quyển bị biến đổi tự nhiên dưới tác động tổng hợp của nước, không khí, sinh vật. Đất có 2 nghĩa: đất đai là nơi ở, xây dựng cơ sở hạ tầng của con người và thổ nhưỡng là mặt bằng để sản xuất nông lâm nghiệp. .Đất hiểu theo nghĩa thông thường nhất là phần mỏng nằm trên bề mặt của trái đất mà không bị nước bao phủ. . Đất theo nghĩa thổ nhưỡng là vật thể thiên nhiên có cấu tạo độc lập lâu đời, hình thành do kết quả của nhiều yếu tố:đá gốc, động thực vật, khí hậu, địa hình và thời gian. .Giá trị tài nguyên đất được đo bằng số lượng diện tích(ha,km2) và độ phì (độ dầu ,ỡ thích hợp cho trồng cây công nghiệp và lương thực). Thành phần cấu tạo của đất thông thường bao gồm: . 40% các hạt khoáng . 5% hợp chất humic . 25% không khí . 35% là nước 1.2. Phân loại đất Trên thế giới: Có nhiều phương pháp phân loại đất khác nhau . Phân loại đất theo phát sinh: (phương pháp bán định lượng) . Phân loại đất của Mỹ(soil Taxanomy): hay còn gọi là phương pháp phân loại định lượng. . Phân loại đất của FAO- UNESCO ( dựa vào các nguồn gốc phát sinh và các tính chất hiện tại của đất) Từ cuối thập kỷ 80, Việt Nam tiếp thu soil Taxanomy và hệ thống phân loại FAO- UNESCO . Nhóm đất cát biển: Đất cồn cát trắng vàng Đất cồn cát đỏ Đất cát biển .Nhóm đất mặn: Đất mặn sú vẹt đước Đất mặn nhiều Đất mặn trung bình và ít .Nhóm đất phèn: Đất phù sa phèn Đất glay phèn Đất than bùn phèn .Đất xói mòn trơ sỏi đá . Nhóm đất glay chua: Đất glay chua Đất lầy .Nhóm đất than bùn .Nhóm đất phù sa: Đất phù sa song Hồng Đất phù sa song Cửu Long Đất phù sa song ngòi miền Trung Đất phù sa chua Đất phù sat rung tính ít chua Đất phù sa đồng bằng .Nhóm đất đen .Nhóm đất mùn alit núi cao .Nhóm đất xám Đất xám feralit Đất xám mùn trên núi Đất xám glay Đất xám bạc màu Đất xám có tầng loang lỗ .Nhóm đất đỏ: Đất nâu đỏ Đất nâu vàng Đất feralit mùn đỏ vàng trên núi .Nhóm đất nâu vùng bán khô hạn: Đất nâu vùng bán khô hạn phát triển trên đa mẹ giàu thạch anh Đất đỏ vùng bán khô hạn 2.3. Đặc tính của đất 2.3.1. Tính chất vật lý Đất tốt, xét theo khía cạnh vật lý, là đất có khả năng giữ nước cao và hút nước nhanh, vì chỉ khi có kết cấu vật lý tốt, thì đất mới thực hiện được 2 chức năng này.  Đất được tạo thành từ 3 chất liệu sau: Chất rắn (Khoáng chất và mùn), nước và không khí. Đất tốt là đất có tỷ lệ ba chất liệu này hợp lý : 40% chất rắn, 30% nước và 30% không khí. Đất phải mềm, để rễ cây dễ dàng xuyên qua đi hút chất dinh dưỡng. Quá nhiều nước trong đất sẽ làm giảm tỉ lệ không khí và gây ra thiếu oxy cho cây. Quá nhiều không khí trong đất sẽ gây ra khô hạn.  Đất sét có hàm lượng chất rắn cao, khả năng giữ nước tốt nhưng hàm lượng không khí thấp.  Đất cát có hàm lượng không khí cao nhưng khả năng giữ nước kém. Bởi vậy, đất sét pha cát có thể đảm bảo vừa giữ nước vừa giữ không khí. Có thể cùng một loại đất, nhưng mảnh ruộng này đất có kết cấu tốt, còn mảnh ruộng kia, đất có kết cấu không tốt. Nguyên nhân ở đây là do lượng mùn trong đất. Mùn có khả năng giữ nước cao và hút nước nhanh, chỉ có mùn mới có khả năng cải thiện kết cấu đất một cách có hiệu quả. Đất giàu mùn (trên 5%) là đất có kết cấu rất tốt. Vòng chu chuyển dinh dưỡng cho thấy, mùn được hình thành từ các chất hữu cơ ( lá rụng, phân, xác súc vật) qua quá trình phân giải của các VSV. Mùn là thức ăn cho VSV, đất và cây trồng, do vậy, nếu không có đủ chất hữu cơ bổ sung thường xuyên thì lượng mùn cũng giảm, dẫn đến kết cấu đất bị thoái hóa. Đấy là tình trạng hiện nay, khi người nông dân ỷ lại quá mức vào phân hóa học. Phân hóa học không những không thể cải thiện kết cấu đất mà còn tiêu diệt hệ VSV trong đất. 2.3.2.  Tính chất hóa học  Đất có tính chất hóa học tốt là đất có khả năng giữ chất dinh dưỡng cao, pH trung tính. Chất lượng và số lượng colloid (chất keo) trong đất quyết định khả năng giữ chất dinh dưỡng. Coilloid chất lượng tốt, giữ được nhiều chất dinh dưỡng. Colloid trong mùn có chất lượng cao nhất, giữ được nhiều chất dinh dưỡng nhất. Cát không có colloid, do vậy, khả năng giữ chất dinh dưỡng của đất cát là rất thấp. Thiếu chất hữu cơ trong đất là nguyên nhân làm cho đất giữ chất dinh dưỡng kém. Những nông dân đã dùng quen phân hóa học đều nhận thấy rằng, muốn đảm bảo được năng suất thì lượng phân hóa học càng ngày càng phải bón tăng, có nghĩa là khả năng giữ chất dinh dưỡng của đất kém. Theo độ pH, đất chia ra thành ba loại: đất chua có độ pH từ 1 đến 5,5, đất trung tính có pH từ 5,5 đến 7,5  và pH trên 7,5 là đất kiềm. pH trung tính là pH tối ưu cho cây trồng. Giữ và điều chỉnh để đất có pH gần 7 là quan trọng trong nông nghiệp. Mùn có khả năng điều chỉnh pH bằng cách hấp thụ axít hoặc kiềm từ ngoài vào. Bón phân hóa học nhiều sẽ làm đất chua và bản thân phân hóa học không điều chỉnh được độ pH của đất.  2.3.3.  Tính chất sinh học  -Tính chất sinh học của đất là sự hoạt động của VSV trong đất. -Số lượng và chủng loại VSV trong các loại đất khác nhau là khác nhau. Trong những điều kiện có nhiều chất hữu cơ, độ ẩm, không khí và pH thích hợp và không có những yếu tố tiêu diệt (các chất hoá học), thì hệ VSV trong đất sẽ phát triển tốt. Các quá trình phân huỷ và khoáng hoá của VSV đất, giúp cho đất có đủ chất dinh dưỡng cung cấp cho cây. Những hoạt động này của VSV trong đất, làm cho đất Sống. Sức khỏe và độ phì nhiêu của đất phụ thuộc vào hoạt động của VSV.  Trong số các VSV trong đất, cũng có những loại gây bệnh, nhưng số đó rất ít, chỉ chiếm khoảng 2-3%. Số còn lại là vô hại và hữu ích. Hệ VSV đất cũng giữ một sự cân bằng sinh thái và do đó, bệnh dịch chỉ xảy ra nếu mất sự cân bằng. Bón nhiều phân hóa học sẽ làm cho đất mất dần khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây và lúc đó, đất chỉ thực hiện được một chức năng còn lại là vật đỡ cho cây. Đất nuôi sống tất cả các sinh vật trên trái đất, trong đó có cả con người, vì vậy chăm lo cho đất chính là chăm lo cho bản thân chúng ta. II. Vai trò và chức năng của tài nguyên đất 2.1. Vai trò của tài nguyên đất - Đối với sinh vật: Đất là môi trường sống của sinh vật trên cạn, cung cấp nơi ở cũng như nguồn thức ăn. - Đối với con người: Đất là môi trường sống của con người , là nền móng cho toàn bộ công trình xây dựng. Đất cung cấp trực tiếp hặc gián tiếp cho con người các nhu cầu thiết yếu của sự sống. . Đất là tư liệu sản xuất cơ bản, phổ biến, là tài nguyên quý nhất của sản xuất công nghệp và nông nghiệp. . Đất còn có giá trị cao về mặt lịch sử tâm lý và tinh thần. Sản phẩm lao động: Con người tác động vào đất tạo ra sản phẩm phục vụ con người. Đất vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm lao động của con người. Đối với xã hội: Tài nguyên quốc gia quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là môi trường sống, là địa bàn xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội an ninh và quốc phòng. Đối với kinh tế: . Trong nghành phi nông nghiệp: đất giữ vai trò thụ động với chức năng là cơ sở không gian và vị trí để hoàn thiện quá trình lao động, là kho tàng dự trữ trong lòng đất. . Trong các nghành nông – lâm nghiệp: đất đai là tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cỡ sở không gian là đối tượng lao động và công cụ. 2.2.Chức năng của tài nguyên đất. Không gian sống: Đất là giá thể cho sinh vật và con người - Chức năng điều hòa khí hậu Chức năng điều hòa nguồn nước Chức năng kiểm soát chất thải và ô nhiễm Chức năng bảo tồn văn hóa và lịch sử Chức năng sản xuất và môi trường sống Chức nằn nối liền không gian Chức năng tồn trữ III.Thực trạng khai thác và sử dụng tài nguyên đất 3.1.Trên thế giới Tổng diện tích bề mặt 510 triệu km2( tương đương 51 tỉ hecta) Biển và đại dương chiếm khoảng 36 tỉ hecta Đất liền và hải đảo chiếm 15 tỉ hecta Trong đó toàn bộ đất vó khả năng canh tác nông nghiệp của thế giới 3,3 tỉ hecta( chiếm 22% diện tích đất liền), còn 11,7 tỉ hecta(chiếm 78% tổng số đất liền) không dùng cho sản xuất nông nghiệp được. Về mặt chất lượng đất nông nghiệp thì: . Đất có năng suất cao chỉ chiếm 14% . Đất có năng suất trung bình chiếm 28% . Đất có năng suất thấp chiếm tới 58% Mặt khác, mõi năm trên thế giới lại bị mất 12 triệu hecta đất trồng trọt cho năng suất cao bị chuyển thành đất phi nông nghiệp và 100 triệu hecta đất trồng trọt bị nhiễm độc. Tỉ lệ đất tự nhiên và đất nông nghiệp trên toàn thế giới Các châu lục Đất tự nhiên Đất nông nghiệp Châu Á 29.5% 35% Châu Mỹ 28.2% 26% Châu Phi 20% 20% Châu Âu 6.5% 13% Châu Đại Dương 15.8% 6% 3.2.Ở Việt Nam Tính từ năm 2000 đến nay, cả nước đã tiến hành 3 cuộc Tổng điều tra đất đai (năm 2000, 2005 và 2010). Từ bộ số liệu của các cuộc tổng điều tra này, bài viết phân những biến động trong cơ cấu sử dụng đất hiện nay, từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai trên cả nước. Hiện trạng sử dụng đất Theo báo cáo Tổng điều tra đất đai năm 2010, tổng diện tích các loại đất kiểm kê của cả nước là 33.093.857 ha. Theo mục đích sử dụng, đất được phân thành 3 nhóm chính: đất nông nghiệp; đất phi nông nghiệp; đất chưa sử dụng. Tình hình sử dụng đất của nước ta cụ thể như sau: Một là, hiện trạng và biến động đất nông nghiệp trên cả nước: Tổng diện tích nhóm đất nông nghiệp của cả nước năm 2010 là 26.100.160 ha, tăng 5.179.385 ha (gấp 1,25 lần) so với năm 2000. Trong đó, lượng tăng chủ yếu ở loại đất lâm nghiệp (tăng 3.673.998 ha) và loại đất sản xuất nông nghiệp (tăng 1.140.393 ha). Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp trên cả nước Biến động sử dụng đất nông nghiệp được thể hiện trên các điểm sau: - Diện tích đất sản xuất nông nghiệp cả nước có sự gia tăng tương đối, giai đoạn 2000-2010, tăng bình quân 114.000 ha/năm. Sự gia tăng này có thể đến từ việc mở rộng một phần quỹ đất chưa sử dụng, khai phá rừng, đất lâm nghiệp... Trong cơ cấu đất sản xuất nông nghiệp, diện tích đất trồng lúa có sự suy giảm đáng kể (trên 340.000 ha), trung bình mỗi năm giảm trên 34.000 ha. Có 41/63 tỉnh giảm diện tích đất trồng lúa. Nguyên nhân giảm chủ yếu do chuyển từ đất trồng lúa kém hiệu quả sang các loại đất nông nghiệp khác, như: đất trồng rau, màu hoặc trồng cây công nghiệp (cao su, cà phê), trồng cây cảnh, cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản và các loại đất phi nông nghiệp (công trình công cộng, phát triển đô thị và các khu dân cư nông thôn, hoặc đất sản xuất, kinh doanh). - Giai đoạn 2000-2005, diện tích đất lâm nghiệp tăng nhanh, từ 11.575.027 ha lên 14.677.409 ha, bình quân hằng năm tăng trên 620.000 ha và mức tăng trưởng này giảm nhẹ trong giai đoạn kế tiếp. Đất lâm nghiệp của cả nước năm 2010 tăng 571.616 ha so với năm 2005, tính chung cho cả giai đoạn diện tích đất lâm nghiệp tăng 3.673.998 ha. Nguyên nhân tăng chủ yếu do các địa phương đã đẩy mạnh việc giao đất để trồng hoặc khoanh nuôi phục hồi rừng, cùng với đó là do quá trình đo đạc, vẽ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp được xác định lại chính xác hơn. So với quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của các tỉnh, thành phố, thì tổng diện tích đất lâm nghiệp cả nước đạt 96,3%, thấp hơn quy hoạch được duyệt là 595.059 ha, trong đó có 35 tỉnh không hoàn thành chỉ tiêu quy hoạch. - Trong 5 năm đầu (2000-2005), diện tích đất nuôi trồng thủy sản có sự tăng trưởng mạnh tăng từ 367.846 ha lên 700.061 ha, bình quân hàng năm tăng khoảng 66.500 ha. Giai đoạn 5 năm tiếp theo (2006-2010) giảm 9.843 ha  (Hình 1). Năm 2010, diện tích đất nuôi trồng thủy sản chiếm 2,64% trong tổng cơ cấu đất nông nghiệp. So với quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của các tỉnh, thành phố, tổng diện tích đất nuôi trồng thủy sản của cả nước (không tính diện tích nuôi trồng thủy sản kết hợp) thực tế thấp hơn 124.392 ha (đạt 84,72% so với quy hoạch được duyệt). - Diện tích đất làm muối có sự suy giảm trong giai đoạn đầu 2000-2005 và tăng trưởng trở lại trong giai đoạn sau 2006-2010. Diện tích đất làm muối giảm 4.829 ha giai đoạn 2000-2005 và 5 năm sau đó tăng 3.487 ha. Tính cả giai đoạn 2001-2010, diện tích đất làm muối giảm 1.342 ha. Mặc dù trong những năm qua, sản xuất muối có những tiến bộ nhất định về năng suất và chất lượng, tuy nhiên, ngành này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước. Hàng năm, đất nước còn phải nhập khẩu muối cho các nhu cầu khác nhau với giá thành cao. Đây là vấn đề mang tính nghịch lý cần phải xem xét, vì Việt Nam là một nước nhiệt đới, với 3.444 km chiều dài bờ biển. - Diện tích đất nông nghiệp khác đã có sự thay đổi đáng kể, tăng trưởng mạnh trong 10 năm qua, từ 402 ha năm 2000 lên tới 25.462 ha vào năm 2010, gấp hơn 63 lần. Mức tăng trưởng gần như tuyến tính, lượng tăng trưởng hàng năm ở mức 2.506 ha. Hai là, hiện trạng và biến động đất phi nông nghiệp: Diện tích đất phi nông nghiệp trên cả nước có mức tăng trưởng tương đối nhanh và tuyến tính trong vòng một thập niên qua. Trung bình mỗi năm, diện tích đất phi nông nghiệp gia tăng thêm khoảng 82.000 ha và tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm ở mức xấp xỉ 29%. Tổng diện tích nhóm đất chuyên dùng gia tăng mạnh nhất trong giai đoạn 2005-2010 (722.277 ha); tiếp theo là diện tích đất ở, tăng 237.300 ha; đất nghĩa trang, nghĩa địa tăng 7.200 ha; đặc biệt, nhóm đất sông suối và mặt nước chuyên dùng giảm mạnh xuống chỉ còn khoảng trên 1 triệu ha vào năm 2010. Đất tôn giáo, tín ngưỡng cũng có sự gia tăng đáng kể, tăng trên 1.800 ha sau 5 năm, từ năm 2005 đến năm 2010 (Bảng 3).   Hiện trạng sử dụng đất phi nông nghiệp trên cả nước  Đất ở: Giai đoạn 2000-2005, diện tích đất ở tăng trưởng nhanh, từ 443.178 ha lên 598.428 ha, bình quân mỗi năm tăng trên 31.000 ha và ở mức trên 7%/năm. Tốc độ này đã tăng trưởng chậm lại trong vòng 5 năm 2005-2010, tuy nhiên vẫn còn ở mức tương đối cao (3%/năm), trung bình mỗi năm tăng trên 16.000 ha. Đây là một con số không nhỏ! Tính bình quân cả giai đoạn 2000-2010, đất ở khu vực nông thôn tăng khoảng 17.900 ha/năm, tăng trưởng ở mức 5,4%/năm; đất ở đô thị tăng khoảng 7.900 ha/năm, tăng trưởng hằng năm ở mức 8,1%/năm. Như vậy, có thể thấy lượng tăng tuyệt đối diện tích đất ở khu vực thành thị nhỏ hơn rất nhiều khu vực nông thôn, nhưng xét về tốc độ tăng trưởng, thì khu vực này lại lớn hơn rất nhiều. Điều này phản ánh áp lực nhu cầu về đất ở khu vực thành thị và xu hướng này sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới. - Đất chuyên dùng: Giai đoạn 2000-2005, đất chuyên dùng trên cả nước tăng từ 1.072.202 ha lên 1.383.766 ha, bao gồm: đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp; đất quốc phòng, an ninh; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp; đất sử dụng vào mục đích công cộng, tăng 213.473 ha so với năm 2000. Giai đoạn 2005-2010, diện tích đất chuyên dùng cả nước tăng 410.713 ha; trong đó, đất phục vụ cho mục đích công cộng tăng mạnh nhất (258.421 ha), chủ yếu là đất giao thông và thủy lợi; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp (101.677 ha); đất quốc phòng và đất an ninh (55.140 ha). So với quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của các tỉnh, thành phố, thì tổng diện tích đất chuyên dùng cả nước mới thực hiện được 94,28% mức quy hoạch được duyệt là 108.405 ha. Trong đó, kết quả thực hiện quy hoạch sử dụng đất khu công nghiệp chỉ đạt 53,8%, thấp hơn 83.691 ha so quy hoạch được duyệt. - Các loại đất khác: Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng đã có sự suy giảm đáng kể trong cơ cấu đất phi nông nghiệp. Năm 2000, diện tích đất sông suối và mặt nước chuyên dùng chiếm tỷ trọng trên 40% trong tổng cơ cấu đất phi nông nghiệp, thì tỷ lệ này năm 2010 chỉ còn trên 29%, giảm khoảng 67.400 ha. Giai đoạn 2000-2010, diện tích đất nghĩa trang, nghĩa địa tăng trưởng tương đối nhanh ở mức 8%/năm, tăng từ 93.700 ha năm 2000 lên tới 101.000 ha vào năm 2010 và chiếm 3,29% trong tổng cơ cấu diện tích đất phi nông nghiệp. Tình trạng lập mồ mả tự do, phân tán trong đất canh tác, ngoài quy hoạch sử dụng đất diễn ra phổ biến, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và vệ sinh môi trường. Do vậy, vấn đề quy hoạch và định mức sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa đang nổi lên cấp bách ở tất cả các địa phương, cần phải giải quyết trong thời gian tới. Bên cạnh đó, đất tôn giáo, tín ngưỡng cũng có sự gia tăng mạnh, trong vòng 5 năm (2005-2010) tăng 1.820 ha, tăng trưởng 14%. Đất phi nông nghiệp khác năm 2010 tăng 715 ha so với năm 2005. Năm 2005, chỉ tiêu đất phi nông nghiệp khác được đưa vào kiểm kê, cả nước có 3.221 ha, chiếm 0,10% tổng diện tích đất phi nông nghiệp cả nước; đến năm 2010, con số này là 3.936 ha. Ba là, hiện trạng và biến động đất chưa sử dụng: Thực tế, diện tích đất chưa sử dụng đã giảm nhanh, mạnh và đáng kể sau một thập niên. Chỉ sau 5 năm từ năm 2000-2005, diện tích đất chưa sử dụng đã giảm một nửa từ 10.027.265 ha xuống còn 5.065.884 ha. Năm 2000, diện tích đất chưa sử dụng chiếm tới 30,5% trong tổng cơ cấu đất đai (gần 2/3 diện tích cả nước), thì năm 2005 con số này chỉ còn 15,3%, đến năm 2010 con số này là 10%. Những con số này cho thấy, quỹ đất đai chưa sử dụng không còn nhiều. Ngay cả những cánh rừng nguyên sinh cũng đã bị tàn phá nhiều để phục vụ cho các mục đích mưu sinh của con người. V. Ô nhiễm tài nguyên đất Ô nhiễm môi trường đất được xem là tất cả các hiện tượng làm nhiễm bẩn môi trường đất bởi các chất gây ô nhiễm, gây ảnh hưởng đến đời sôngs và sinh hoạt của con người 5.1.Nguyên nhân gây ô nhiễm 5.1.1.Nguồn gốc tự nhiên Trong các khoáng vật hình thành nên đất thường chứa một hàm lượng nhất định kim loại nặng, trong điều kiện bình thường cúng là những nguyên tố trung lượng và vi lượng không thể thiếu cho cây trồng và sinh vật trong đất, tuy nhiên trong một số điều kiện đặc biệt chúng vượt 1 giới hạn nhất định và trở thành đất ô nhiễm. Một số ví dụ: Chì: Trong các đá magma, Pb có xu thế tăng dần hàm lượng từ siêu mafic đến axit. Trong các đá magma, Pb chủ yếu tập trung trong khoáng vật felspat, tiếp đó là những khoáng vật tạo đá xẫm màu mà đặc biệt là biotit. Trong thành phần tạo đá trầm tích và biến chất:Ở khu vực Đông Bắc Bộ, Pb được xếp vào nhóm nguyên tố quặng kim loại (Sn, Cu, Pb, Zn, Ga, Ag) rất phổ biến; chúng được phát hiện với hàm lượng cao trong các đá trầm tích và trầm tích biến chất, đặc biệt trong các đá Paleozoi. Ở khu vực Tây Bắc Bộ, Pb và Cu là 2 nguyên tố quặng kim loại phổ biến với hàm lượng cao trong các đá trầm tích và trầm tích biến chất. Pb thường tập trung cao trong các đá trầm tích ở 2 bên tả và hữu ngạn sông Đà. Tuy nhiên, trong điều kiện bình thường, chì là nguyên tố kém linh động. 5.1.2.Nguồn gốc nhân tạo * Ô nhiễm do hoạt động nông nghiệp: Việc sử dụng quá nhiều phân hóa học và phân hữu cơ, thuốc trừ sâu, và thuốc diệt cỏ. Phân bón hóa học: Phân hóa học được rải trong đất nhằm gia tăng năng suất cây trồng. Nguyên tắc là khi người ta lấy đi của đất các chất cần thiết cho cây thì người ta sẽ trả lại đất qua hình thức bón phân. Đây là loại hoá chất quan trọng trong nông nghiệp, nếu sử dụng thích hợp sẽ có hiệu quả rõ rệt đối với cây trồng. Nhưng nó cũng là con dao 2 lưỡi, sử dụng không đúng sẽ lợi bất cập hại, một trong số đó là ô nhiễm đất. Nếu bón quá nhiều phân hoá học là hợp chất nitơ, lượng hấp thu của rễ thực vật tương đối nhỏ, đại bộ phận còn lưu lại trong đất, qua phân giải chuyển hoá, biến thành muối nitrat trở thành nguồn ô nhiễm cho mạch nước ngầm và các dòng sông. Cùng với sự tăng lên về số lượng sử dụng phân hoá học, độ sâu và độ rộng của loạiônhiễmnàyngàycàngnghiêmtrọng. Sự tích lũy cao các chất hóa chất dạng phân bón cũng gây hại cho MTST đất về mặt cơ lý tính. Khi bón nhiều phân hóa học làm đất hở nên chặt hơn, độ trương co kém, kết cấu vững chắc, không tơi xốp mà nông dân gọi là đất trở nên “chai cứng”, tính thoáng khí kém hơn đi, vi sinh vật ít đi vì hóa chất hủy diệt vi sinh vật. Phân hữu cơ: Phần lớn nông dân bón phân hữu cơ chưa được ủ và xử lí đúng kĩ thuật nên gây nguy hại cho môi trường đất.nguyên nhân là do trong phân chứa nhiều giun sán, trứng giun, sâu bọ, vi trùng và các mầm bệnh khác..khi bón vào đất, chúng có điều kiện sinh sôi nảy nở, lan truyền môi trường xung quanh, diệt một số vi sinh vật có lợi trong đất Bón phân hữu cơ quá nhiều trong điều kiện y
Luận văn liên quan