LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính Việt Nam đang sôi động từng ngày bởi sự lớn mạnh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước kéo theo đó là sự phát triển không ngừng của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam tạo cho nước ta một vị thế không nhỏ trên trường quốc tế. Sau một thời gian dài đàm phán để gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới, ngày 7/11/2006, cả nước ta hoan hỉ chào đón Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, đánh dấu một bước đột phá đối với nền kinh tế Việt Nam. Cũng chính từ thời điểm đó những mối quan hệ thương mại quốc tế mới mở ra trước mắt làm cho bánh xe kinh tế Việt Nam đã nóng lại càng nóng hơn và như được bôi trơn dầu mỡ, nó bắt đầu hoạt động nhịp nhàng với tốc độ ngày càng tăng hứa hẹn một tương lai vững mạnh cho Việt Nam trên mọi mặt của nền kinh tế.
Để thúc đẩy cỗ máy kinh tế đó hoạt động tốt các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế cũng như mọi cá nhân đã đang và sẽ nỗ lực không ngừng trong khả năng có thể để làm lành mạnh doanh nghiệp, đưa doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp phải đối mặt khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển đó là các quan hệ tín dụng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, chính từ đó sự phát sinh nợ đã trở thành một yếu tố tất nhiên trong hoạt động kinh doanh, trong đó bao gồm cả tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại. Tình trạng nợ nần này phải được nhìn từ cả hai khía cạnh: từ phía người cho vay (bên cung cấp tín dụng hay là chủ nợ) và phía người đi vay (bên nhận tín dụng hay khách nợ), và đôi khi phải tính đến cả những yếu tố thị trường nữa (những tác nhân bên ngoài ảnh hưởng tới quan hệ tín dụng của cả hai bên).
Hiện nay ở nước ta nhiều doanh nghiệp đang phải đối mặt với rủi ro tín dụng rất cao trong đó rủi ro rủi ro về tổn thất nợ khó đòi là một trong những nhân tố cần được kiểm soát chặt chẽ. Trong nhiều trường hợp, tổn thất nợ khó đòi giữa các doanh nghiệp đang tiếp tục gia tăng làm suy giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, thậm chí dẫn tới nguy cơ phá sản. Trước nền kinh tế đã được hội nhập, trước môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, vấn đề quản lý công nợ phải thu và xử lý nợ khó đòi đã và đang trở nên vô cùng cần thiết đối với các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Nhận thấy tính cần thiết của việc quản lý công nợ phải thu và xử lý nợ khó đòi ở doanh nghiệp, qua quá trình thực tập ở công ty cổ phần gas Petrolimex em đã đi sâu tìm hiểu tình hình hoạt động của công ty và đã quyết định chọn đề tài:
“Tăng cường quản lý công nợ phải thu của công ty cổ phần gas Petrolimex”.
Đề tài của em gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lý công nợ phải thu của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng quản lý công nợ phải thu tại công ty cổ phần gas Petrolimex.
Chương 3: Những giải pháp nhằm tăng cường quản lý công nợ phải thu tại công ty cổ phần gas Petrolimex.
72 trang |
Chia sẻ: tienduy345 | Lượt xem: 3883 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý công nợ phải thu của công ty cổ phần gas Petrolimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính Việt Nam đang sôi động từng ngày bởi sự lớn mạnh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước kéo theo đó là sự phát triển không ngừng của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam tạo cho nước ta một vị thế không nhỏ trên trường quốc tế. Sau một thời gian dài đàm phán để gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới, ngày 7/11/2006, cả nước ta hoan hỉ chào đón Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, đánh dấu một bước đột phá đối với nền kinh tế Việt Nam. Cũng chính từ thời điểm đó những mối quan hệ thương mại quốc tế mới mở ra trước mắt làm cho bánh xe kinh tế Việt Nam đã nóng lại càng nóng hơn và như được bôi trơn dầu mỡ, nó bắt đầu hoạt động nhịp nhàng với tốc độ ngày càng tăng hứa hẹn một tương lai vững mạnh cho Việt Nam trên mọi mặt của nền kinh tế.
Để thúc đẩy cỗ máy kinh tế đó hoạt động tốt các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế cũng như mọi cá nhân đã đang và sẽ nỗ lực không ngừng trong khả năng có thể để làm lành mạnh doanh nghiệp, đưa doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp phải đối mặt khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển đó là các quan hệ tín dụng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, chính từ đó sự phát sinh nợ đã trở thành một yếu tố tất nhiên trong hoạt động kinh doanh, trong đó bao gồm cả tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại. Tình trạng nợ nần này phải được nhìn từ cả hai khía cạnh: từ phía người cho vay (bên cung cấp tín dụng hay là chủ nợ) và phía người đi vay (bên nhận tín dụng hay khách nợ), và đôi khi phải tính đến cả những yếu tố thị trường nữa (những tác nhân bên ngoài ảnh hưởng tới quan hệ tín dụng của cả hai bên).
Hiện nay ở nước ta nhiều doanh nghiệp đang phải đối mặt với rủi ro tín dụng rất cao trong đó rủi ro rủi ro về tổn thất nợ khó đòi là một trong những nhân tố cần được kiểm soát chặt chẽ. Trong nhiều trường hợp, tổn thất nợ khó đòi giữa các doanh nghiệp đang tiếp tục gia tăng làm suy giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, thậm chí dẫn tới nguy cơ phá sản. Trước nền kinh tế đã được hội nhập, trước môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, vấn đề quản lý công nợ phải thu và xử lý nợ khó đòi đã và đang trở nên vô cùng cần thiết đối với các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Nhận thấy tính cần thiết của việc quản lý công nợ phải thu và xử lý nợ khó đòi ở doanh nghiệp, qua quá trình thực tập ở công ty cổ phần gas Petrolimex em đã đi sâu tìm hiểu tình hình hoạt động của công ty và đã quyết định chọn đề tài:
“Tăng cường quản lý công nợ phải thu của công ty cổ phần gas Petrolimex”.
Đề tài của em gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lý công nợ phải thu của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng quản lý công nợ phải thu tại công ty cổ phần gas Petrolimex.
Chương 3: Những giải pháp nhằm tăng cường quản lý công nợ phải thu tại công ty cổ phần gas Petrolimex.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ CÔNG NỢ PHẢI THU CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về tài sản của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm
Để tìm hiểu về tài sản của doanh nghiệp trước tiên chúng ta cần biết doanh nghiệp là gì?
Theo luật doanh nghiệp của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở ổn định, được đăng kí kinh doanh theo qui định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Từ đó ta thấy doanh nghiệp là một thực thể kinh doanh đơn vị kinh tế nắm trong tay các tiềm lực và tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận và cần phải ghi chép, tổng hợp cũng như báo cáo.
Bất cứ doanh nghiệp nào khi muốn tiến hành kinh doanh cũng cần phải có một lượng vốn nhất định. Lượng vốn đó biểu hiện dưới dạng vật chất hay phi vật chất và được đo bằng tiền gọi là tài sản. Mặt khác,để có tài sản đó thì vốn của doanh nghiệp lại được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau gọi là nguồn vốn. Về mặt kinh tế tài sản phản ánh qui mô và kết cấu các loại tài sản còn nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp. Như vậy tài sản và nguồn vốn là hai mặt giá trị của vốn có mối quan hệ chặt chẽ và luôn được ghi chép trên bảng cân đối kế toán_một báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tổng quát tình hình vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định theo nguồn tình hình tài sản (giáo trình Hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp). Bảng cân đối kế toán thông thường có các khoản mục sau:
Bảng 1.1. BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN TRONG DOANH NGHIỆP
TÀI SẢN
NGUỒN VỐN
I. Tài sản lưu động
1. Tiền
2. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
3. Các khoản phải thu
4. Hàng tồn kho
5. Tài sản lưu động khác
6. Chi sự nghiệp
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
1. Tài sản cố định
-1 Tài sản cố định hữu hình
-2 Tài sản cố định thuê tài chính
-3 Tài sản cố định vô hình
2. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
3. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang
4. Các khoản ký quỹ ký cược dài hạn
5. Chi phí trả trước dài hạn
I. Nợ phải trả
1. Nợ ngắn hạn
2. Nợ dài hạn
3. Nợ khác
II. Nguồn vốn chủ sở hữu
1. Nguồn vốn-quỹ
-4 Nguồn vốn kinh doanh
-5 Chênh lệch đánh giá lại tài sản
-6 Chênh lệch tỷ giá hối đoái
-7 Quỹ đầu tư phát triển
-8 Quỹ dự phòng tài chính
-9 Lợi nhuận chưa phân phối
-1 Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản
2. Nguồn kinh phí khác
-1 Quỹ khen thưởng phúc lợi
-1 Quỹ quản lý của cấp trên
-1 Nguồn kinh phí sự nghiệp
-1 Nguồn kinh phí đã hình thành tài sản cố định
TỔNG CỘNG TÀI SẢN
TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN
Tóm lại, tài sản là toàn bộ nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai hoặc tài sản là những tiềm năng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của đơn vị.
Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản là tiềm năng làm tăng nguồn tiền và các khoản tương đương tiền của doanh nghiệp hoặc làm giảm bớt các khoản tiền mà doanh nghiệp phải chi ra.
Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản được thể hiện trong các trường hợp như:
Được sử dụng một cách đơn lẻ hoặc kết hợp với các tài sản khác trong sản xuất sản phẩm để bán hay cung cấp dịch vụ cho khách hàng
Để bán hoặc trao đổi lấy tài sản khác
Để thanh toán các khoản nợ phải trả
Để phân phối cho các chủ sở hữu của doanh nghiệp
Như vậy tài sản là tất cả những thứ hữu hình hoặc vô hình gắn với lợi ích kinh tế trong tương lai của đơn vị thoả mãn các điều kiện sau:
+ Thuộc quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát lâu dài của doanh nghiệp.
+ Có giá trị thực sự đối với doanh nghiệp
+ Có giá phí xác định.
Độ lớn, quy mô của doanh nghiệp phụ thuộc vào quy mô tài sản mà doanh nghiệp đang sở hữu.
1.1.2. Phân loại
Có rất nhiều cách phân loại tài sản trong các doanh nghiệp, nhưng cách phân loại thông thường nhất là theo cách phân loại về mặt giá trị và tính chất luân chuyển của tài sản. Theo chế độ kế toán và để tiện theo dõi, toàn bộ tài sản của các doanh nghiệp được chia làm hai loại như sau:
Loại 1: Tài sản lưu động (TSLĐ)
Là những tài sản có thời gian luân chuyển ngắn, tức là vòng đời của nó khoảng dưới một năm. TSLĐ phản ánh toàn bộ giá trị của các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với tính chất công dụng khác nhau,vì thế để tiện lợi cho việc quản lý, tài sản lưu động được phân theo các cách khác nhau:
Theo lĩnh vực tham gia luân chuyển: tài sản lưu động gồm ba loại: Tài sản lưu động sản xuất, tài sản lưu động lưu thông và tài sản lưu động tài chính.
+ Tài sản lưu động sản xuất gồm những tài sản dự trữ cho quá trình sản xuất và tài sản trong sản xuất.Nó là những nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ.
+ Tài sản lưu động lưu thông bao gồm tài sản dự trữ cho quá trình lưu thông và tài sản trong quá trình lưu thông. Đó là hàng hoá, thành phẩm, hàng đang chuyển, hàng tồn kho
+ Tài sản lưu động tài chính là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn với mục đích kiếm lời. Tài sản lưu động tài chính bao gồm các chứng khoán đầu tư ngắn hạn
Theo khả năng thanh khoản tức là khả năng huy động cho khả năng thanh toán, người ta chia tài sản lưu động thành các loại sau:
+ Tiền mặt: là tài sản của đơn vị tồn tại trực tiếp dưới hình thái giá trị. Thuộc về tiền của đơn vị bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển. Tiền mặt là tài sản có tính thanh khoản cao nhất.
+ Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: là những khoản đầu tư về vốn nhằm mục đích kiếm lời có thời hạn thu hồi trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh. Thuộc đầu tư tài chính ngắn hạn gồm các khoản đầu tư cổ phiếu, trái phiếu,
+ Các khoản phải thu là số tài sản của đơn vị nhưng đang bị các tổ chức, tập thể hay cá nhân khác chiếm dụng mà đơn vị có trách nhiệm thu hồi. Các khoản phải thu ngắn hạn bao gồm phải thu người mua, tiền đặt trước cho người bán, khoản nộp thừa cho Ngân sách, các khoản phải thu nội bộ
+ Hàng tồn kho là tài sản lưu động tồn tại dưới hình thái vật chất có thể cân, đo, đong, đếm được. Hàng tồn kho có thể có do đơn vị tự sản xuất hay mua ngoài. Hàng tồn kho bao gồm: Vật liệu, dụng cụ, hàng mua đang đi đường, thành phẩm, hàng hoá, sản phẩm dở dang.
+ Tài sản lưu động khác: là những tài sản lưu động còn lại như các khoản tam ứng cho công nhân viên chức, các khoản chi phí trả trước
- Căn cứ vào mục đích sử dụng : tài sản lưu động trong doanh nghiệp còn có thể phân loại thành tài sản lưu động trong kinh doanh và tài sản lưu động ngoài kinh doanh. Các loại tài sản lưu động ngoài kinh doanh đều không tham gia vào quá trình kinh doanh của đơn vị.
Loại 2: Tài sản cố định
Tài sản cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp có thời gian luân chuyển dài (thường là trên một năm hay một chu kỳ kinh doanh). Tài sản cố định của doanh nghiệp được chia làm hai loại: Tài sản cố định hữu hình và Tài sản cố định vô hình.
Tài sản cố định hữu hình là các tài sản cố định có hình thái vật chất, có đủ tiêu chuẩn của tài sản cố định về gái trị và thời gian sử dụng theo qui định trong chế độ quản lý tài chính hiện hành như nàh cửa, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫn
Tài sản cố định vô hình là những tài sản cố định không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư, chi trả nhằm có được các lợi ích hoặc các nguồn có tính chất kinh tế mà giá trị của chúng xuất phát từ các đặc quyền hoặc quyền của doanh nghiệp như quyền sử dụng đất, bản quyền, bằng phát minh sáng chế.Với loại tài sản này đặc biệt là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng có thể không kiểm soát được về mặt pháp lý như các bí quyết kỹ thuật thu được từ quá trình sản xuất kinh doanh, phát minh, sáng chếsẽ chỉ thoả mãn khái niệm về tài sản khi nó vẫn còn giữ được bí mật và doanh nghiệp vẫn thu được lợi ích kinh tế từ tài sản đó.
Tài sản cố định có thể được hình thành do đơn vị tự đầu tư hoặc thuê dài hạn. Những tài sản thuê ngoài không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp kiểm soát được và thu được lợi ích kinh tế trong tương lai.
1.1.3. Đánh giá và ghi nhận tài sản của doanh nghiệp
Doanh nghiệp ngay từ khi được thành lập, quy mô của nó phụ thuộc vào vốn hình thành thể hiện qua tài sản và nguồn vốn. Tài sản đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp và trong quá trình sản xuất kinh doanh thường xuyên có các hoạt động làm tăng, giảm tài sản để đảm bảo hiệu quả sản xuất tối ưu do đó đánh giá và ghi nhận tài sản của doanh nghiệp một cách chính xác và kịp thời là công việc rất có ý nghĩa trong công tác quản lý, sử dụng đầy đủ và hợp lý tài sản trong doanh nghiệp.
Đánh giá và ghi nhận tài sản của doanh nghiệp là quá trình theo dõi nắm bắt tình hình biến động của tài sản về số lượng và chất lượng cũng như tình hình sử dụng tài sản đó.
Giá trị tài sản cũng như nguồn vốn được phản ánh trong sổ sách kế toán thông qua phương pháp hạch toán kế toán. Tài sản được ghi nhận trong sổ sách kế toán lần đầu tiên theo đúng toàn bộ giá trị thực tế của nó tại thời điểm đó (với tài sản cố định, nó chính là nguyên giá). Tài sản được ghi nhận trong bảng CĐKT khi doanh nghiệp có khả năng chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ tài sản đó và giá trị của tài sản đó được xác định một cách đáng tin cậy. Tuy nhiên trong quá trình sử dụng thì giá trị của những tài sản trong doanh nghiệp sẽ có sự thay đổi về giá trị do một số yếu tố khác nhau làm giá của nó tăng, giảm liên tục. Cụ thể như:
+ Cung và cầu về tài sản trên thị trường thường xuyên biến động làm giá trị của nó tăng, giảm liên tục. Trong trường hợp này kế toán hạch toán làm tăng, giảm TSCĐ.
+ Quá trình sử dụng tài sản (đặc biệt là TSCĐ) làm hao mòn tài sản khiến cho giá trị của nó giảm đi đáng kể. Trong trường hợp này kế toán sẽ hạch toán trích khấu hao TSCĐ vào cuối kỳ hoạt động.
+ Công nghệ ngày càng hiện đại làm cho tài sản tài sản nhanh chóng trở nên lạc hậu vào một thời gian ngắn sau đó, điều này tất yếu làm cho thị giá của tài sản sẽ giảm xuống.
+ Ảnh hưởng của lạm phát làm đồng tiền mất giá gây nên sự biến động trong giá trị của tài sản.
Do vậy việc xác định nên đầu tư vào tài sản nào là rất quan trọng và trong quá trình sử dụng phải thường xuyên đánh giá lại và ghi nhận những sự thay đổi về giá trị của nó để phản ánh đúng giá trị thực của tài sản, từ đó đưa ra những quyết định tài chính của doanh nghiệp được chính xác.
1.2. Công nợ phải thu của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm
Công nợ là biểu hiện mối quan hệ giữa chủ nợ, khách nợ thông qua một hoặc nhiều đối tượng nợ. Chủ nợ và khách nợ có thể là những tổ chức kinh tế hay những cá nhân có mối quan hệ làm ăn mua bán, trao đổi với nhau. Công nợ bao gồm công nợ phải thu và công nợ phải trả trong đó công nợ phải thu được theo dõi bên Tài sản của bảng CĐKT trong khi công nợ phải trả được theo dõi bên Nguồn vốn.
Qua bảng CĐKT ta nhận thấy công nợ phải thu là một bộ phận quan trọng trong tài sản của doanh nghiệp. Nó phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp khi thực hiện việc cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cũng như một số trường hợp khác liên quan đến bộ phận vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng tạm thời như cho mượn ngắn hạn, chi hộ cho đơn vị bạn hoặc cấp trên, giá trị tài sản thuế mà chưa xử lý
Nói một cách ngắn gọn, công nợ phải thu là số tài sản của đơn vị nhưng đang bị các tổ chức hay tập thể, cá nhân khác chiếm dụng mà đơn vị có trách nhiệm thu hồi. Những tài sản đó là những khoản phát sinh trong các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với các đối tác.
1.2.2. Phân loại công nợ phải thu
Vì công nợ phải thu là mối quan hệ giữa chủ nợ - khách nợ thông qua đối tượng nợ. Đối tượng nợ ở đây chính là những khoản tiền, giá trị mà khách nợ đang chiếm dụng của công ty và chưa thanh toán. Để tiện theo dõi các khoản phải thu ta có thể phân loại nợ phải thu theo khách nợ. Nợ phải thu bao gồm: phải thu khách hàng, trả trước cho người bán, thuế GTGT được khấu trừ, phải thu nội bộ và các khoản phải thu khác. Trong đó phải thu khách hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong công nợ phải thu thường xuyên phát sinh trong quá trình mua bán, trao đổi hàng hoá và cũng là khoản phải thu gặp nhiều rủi ro về khả năng thu hồi vốn. Chính vì thế nghiệp vụ quản lý công nợ tập trung chủ yếu về quản lý các khoản phải thu khách hàng và các khoản trả trước cho nhà cung cấp. Do đó trong đề án này em xin đi sâu phân tích về khoản phải thu khách hàng và quản lý công nợ phải thu khách hàng.
Công nợ phải thu bao gồm:
1.2.2.1. Phải thu khách hàng
Phải thu khách hàng là khoản tiền mà khách hàng đã mua nợ doanh nghiệp khi khách hàng này đã được doanh nghiệp cung cấp hàng hoá, dịch vụ nhưng chưa thanh toán tiền cho doanh nghiệp.
Tuỳ theo khả năng thu hồi, thời gian thu hồi, hình thức bảo lãnh, khách nợ thì các khoản phải thu khách hàng lại được phân ra như sau:
a. Theo khả năng thu hồi, phải thu khách hàng bao gồm:
- Nợ có khả năng thu hồi: Đây là những khoản phải thu vẫn còn hạn thanh toán và khách hàng vẫn đang hoạt động kinh doanh tốt. Những khoản phải thu như thế này có thể đem lại cho doanh nghiệp những mối quan hệ tốt với khách hàng là động lực thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.
- Nợ không có khả năng thu hồi (nợ khó đòi): đây là những khoản nợ đã quá hạn thanh toán mà khách hàng vẫn không trả được hoặc những khoản nợ mà doanh nghiệp sau khi thẩm định thấy khách hàng không thể trả được ngay cả khi thời hạn thanh toán vẫn còn do khách hàng gặp phải một số những khó khăn không thể tiếp tục kinh doanh để trả nợ.
Việc xếp loại nợ phải thu khách hàng vào nợ khó đòi rất quan trọng vì nó liên quan tới việc xử lý khoản nợ đó khi khách hàng không thể trả nợ được, doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra khoản chi phí cho việc thu hồi và phải trích lập dự phòng đề phòng rủi ro không thu hồi được nợ và có những biện pháp xử lý kịp thời tránh tổn thất cho doanh nghiệp. Ta có thể đi sâu tìm hiểu nợ khó đòi như sau:
Khái niệm: Nợ khó đòi là các khoản nợ đã quá thời hạn thanh toán, doanh nghiệp đã áp dụng các biện pháp xử lý như đối chiếu, xác nhận, đôn đốc thanh toán nhưng vẫn chưa thu hồi được.
Các khoản phải thu được coi là các khoản nợ khó đòi khi nó đảm bảo các điều kiện sau:
+ Nợ phải thu đã quá hạn thanh toán ghi trên hợp đồng kinh tế, các khế ước vay nợ hoặc các cam kết nợ khác.
+ Nợ phải thu chưa đến thời hạn thanh toán nhưng các tổ chức kinh tế (các công ty, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, tổ chức tín dụng) đã lâm vào tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể; người nợ mất tích, bỏ trốn, đang bị các cơ quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử, đang thi hành án hoặc đã chết.
+ Những khoản nợ quá hạn từ 3 năm trở lên coi như không có khả năng thu hồi và được xử lý theo qui định.
Phân loại nợ quá hạn:
Ta có thể dựa vào “tuổi” của các khoản nợ cùng với tình hình hoạt động của doanh nghiệp để phân loại nợ khó đòi. Theo cách đó ta có 2 loại nợ khó đòi sau:
Nợ phải thu đã quá hạn thanh toán: đây là những khoản nợ của khách hàng đã qua hạn phải trả nhưng do một lý do nào đó mà khách hàng đó không thể trả được. Đối với khoản nợ khó đòi này, ta có thể phân ra làm các loại sau:
+ Khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán từ 3 tháng đến dưới 1 năm.
+ Khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán từ 1 năm đến dưới 2 năm.
+ Khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán từ 2 năm đến dưới 3 năm
+ Khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán từ 3 năm trở lên.
Nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán nhưng tổ chức kinh tế đã lâm vào tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể; người nợ mất tích, bỏ trốn, đang bị các cơ quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử hoặc đang thi hành án
Các khoản nợ đã quá hạn thanh toán trên 3 năm hoặc chưa quá hạn thanh toán nhưng tổ chức kinh tế vay nợ không có khả năng trả nợ được nữa thì được coi như khoản nợ không có khả năng thu hồi.
b. Theo thời gian thu hồi, nợ phải thu bao gồm:
- Nợ trong hạn: những khoản tiền hàng mà khách hàng chưa thanh toán cho doanh nghiệp nhưng vẫn còn trong thời hạn qui định trong hợp đồng mua bán thì được coi là những khoản phải thu trong hạn. Thời hạn qui định trong hợp đồng được doanh nghiệp và khách hàng thoả thuận khi bắt đầu ký hợp đồng mua bán trao đổi hàng hoá. Thời hạn này được qui định tuỳ theo từng đối tượng khách hàng.
- Nợ quá hạn: là những khoản nợ phải thu đã vượt quá thời hạn qui định trả nợ trong hợp đồng trao đổi hàng hoá mà khách nợ vẫn chưa thanh toán tiền cho doanh nghiệp. Đối với những khoản nợ này thì rủi ro không thu hồi được nợ là rất cao do khi gần đến hạn thanh toán thường doanh nghiệp sẽ có những biện pháp thúc giục khách nợ thanh toán tiền hàng nhưng khách hàng vẫn chưa thanh toán được khi thời hạn thanh toán đã hết chứng tỏ những khoản nợ này có vấn đề và cần phải theo dõi để xử lý kịp thời.
c. Theo hình thức bảo lãnh, nợ phải thu bao gồm:
Theo hình thức này, doanh nghiệp khi trao đổi hàng hoá việc thu tiền về ngay hay còn cho đối tác nợ lại dựa trên uy tín của đối tác đối với doanh nghiệp. Có hai hình thức nợ như sau:
- Nợ có bảo lãnh: thường áp dụng với những khách hàng mới xuất hliện trên thị trường mà doanh nghiệp chưa nắm được tình hình hoạt động kinh doanh của nó; với những khách hàng mà đã từng có những dấu hiệu làm ăn thua lỗ hay có những bằng chứng chứng minh khách hàng này thường hay thiếu nợ với những đối tác khác trong kinh doanh. Với những khách hàng này doanh ng