Đề tài Thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện

Thẩm quyền xét xử theo sự việc của Toà án nhân dân (TAND) là một trong những quy định trung tâm của chế định thẩm quyền xét xử của Tòa án. Việc quy định đúng đắn thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự (VAHS) của TAND có vai trò quan trọng trong việc thực hiện tốt các nhiệm vụ tố tụng. Đồng thời, thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cũng là cơ sở để xác định thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng khác, tiết kiệm chi phí cho những người tham gia tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, Nhà nước và toàn xã hội trong quá trình giải quyết vụ án. Có thể nói thẩm quyền xét xử theo sự việc của TAND luôn là quy định được quan tâm hàng đầu ngay từ khi bắt đầu nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Chiến lược cải cách tư pháp đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam khởi xướng từ lâu được coi là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết 08 ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, và nhất là Nghị quyết 49 ngày 2/6/2006 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã tạo ra sự chuyển biến đồng bộ. Theo đó, đối với công tác xét xử của Tòa án thì tiếp tục “phân định các thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân. Từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện trên cơ sở kiện toàn tổ chức đội ngũ cán bộ cho Tòa án cấp này. Kiện toàn đến đâu mở rộng thẩm quyền xét xử đến đó”. So với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện được mở rộng hơn nhiều. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 vẫn quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm thuộc về cả Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh. Do vậy, việc xác định thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện tạo điều kiện cho việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các VAHS của TAND cấp tỉnh. Thẩm quyền xét xử theo sự việc của TAND cấp huyện được quy định một cách hợp lý, chặt chẽ thì phần lớn tội phạm xảy ra sẽ được xử lý kịp thời, phát huy được tác dụng giáo dục, răn đe, góp phần bảo vệ trật tự xã hội. Thực tế hiện nay, khi thực hiện thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện còn có nhiều vướng mắc do nhiều nguyên nhân khác nhau.

doc62 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4049 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Thẩm quyền xét xử theo sự việc của Toà án nhân dân (TAND) là một trong những quy định trung tâm của chế định thẩm quyền xét xử của Tòa án. Việc quy định đúng đắn thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự (VAHS) của TAND có vai trò quan trọng trong việc thực hiện tốt các nhiệm vụ tố tụng. Đồng thời, thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cũng là cơ sở để xác định thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng khác, tiết kiệm chi phí cho những người tham gia tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, Nhà nước và toàn xã hội trong quá trình giải quyết vụ án. Có thể nói thẩm quyền xét xử theo sự việc của TAND luôn là quy định được quan tâm hàng đầu ngay từ khi bắt đầu nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Chiến lược cải cách tư pháp đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam khởi xướng từ lâu được coi là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết 08 ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, và nhất là Nghị quyết 49 ngày 2/6/2006 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã tạo ra sự chuyển biến đồng bộ. Theo đó, đối với công tác xét xử của Tòa án thì tiếp tục “phân định các thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân. Từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện trên cơ sở kiện toàn tổ chức đội ngũ cán bộ cho Tòa án cấp này. Kiện toàn đến đâu mở rộng thẩm quyền xét xử đến đó”. So với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện được mở rộng hơn nhiều. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 vẫn quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm thuộc về cả Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh. Do vậy, việc xác định thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện tạo điều kiện cho việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các VAHS của TAND cấp tỉnh. Thẩm quyền xét xử theo sự việc của TAND cấp huyện được quy định một cách hợp lý, chặt chẽ thì phần lớn tội phạm xảy ra sẽ được xử lý kịp thời, phát huy được tác dụng giáo dục, răn đe, góp phần bảo vệ trật tự xã hội. Thực tế hiện nay, khi thực hiện thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện còn có nhiều vướng mắc do nhiều nguyên nhân khác nhau. Những lý do trên đây lập luận cho tính cấp thiết của đề tài mà chúng tôi chọn nghiên cứu. 2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện theo quy định của BLTTHS năm 2003 bao gồm thẩm quyền xét xử theo đối tượng, theo sự việc, và theo lãnh thổ. Do đó, phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của đề tài này là “thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện”. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh, thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án và thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của Tòa án quân sự khu vực không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này. 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, thực tiễn xét xử của TAND cấp huyện, mục đích nghiên cứu của đề tài là: - Làm rõ khái niệm thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện. - Làm rõ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thẩm quyền xét xử theo sự việc của TAND cấp huyện. - Đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định trên, đặc biệt là từ khi áp dụng thẩm quyền mới theo quy định của BLTTHS năm 2003, chỉ ra một số kiến nghị nhằm nâng cao năng lực xét xử của TAND cấp huyện, hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử theo sự việc của TAND cấp huyện. 4. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của đề tài là triết học Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp và nền hành chính quốc gia. Việc nghiên cứu đề tài còn dựa trên thực tiễn xét xử của TAND cấp huyện, khảo sát nghiên cứu các số liệu thống kê về tình hình xét xử, về tổ chức cán bộ của TAND cấp huyện. Ngoài ra, phương pháp nghiên cứu của đề tài còn bao gồm phương pháp so sánh, thống kê, lịch sử, phân tích, tổng hợp... Đề tài nghiên cứu “Thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện” là một đề tài phức tạp. Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến các thấy cô giáo và các bạn sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là Thạc sĩ Đỗ Thị Phượng đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này. Lần đầu tiên tiếp cận, làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, do hạn chế về tài liệu và khả năng nhận thức của bản thân nên khoá luận khó có thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Vì vậy, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các bạn sinh viên để đề tài nghiên cứu này được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1 NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ THEO SỰ VIỆC CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 1.1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân Trong xã hội loài người có sự phân hoá giai cấp, với tư cách như là công cụ hữu hiệu nhất bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị, thực hiện chức năng quản lý điều hành toàn xã hội, quyền lực Nhà nước ra đời. Cho đến nay, lịch sử xã hội loài người đã trải qua nhiều kiểu Nhà nước khác nhau: Nhà nước chiếm hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư bản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mặc dù tính chất của mỗi Nhà nước là khác nhau, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị khác nhau, nhưng chúng đều có một điểm chung nhất đó là bất kỳ Nhà nước nào cũng bao gồm nhiều bộ phận, có vai trò khác nhau nhưng có mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau cùng thực hiện quyền lực Nhà nước, đó chính là các cơ quan Nhà nước. Mỗi cơ quan Nhà nước, khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, đều được hoạt động trong một phạm vi, một lĩnh vực nhất định với quyền năng mà pháp luật cho phép được gọi là thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước. Nếu như dưới Chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến, quyền lực Nhà nước bao gồm quyền hành pháp, tư pháp, và lập pháp rơi vào tay một số người, thậm chí một người, khi đó cơ quan Nhà nước thực hiện thẩm quyền theo sự phân công của nhà Vua. Đến thời kỳ Tư bản chủ nghĩa, học thuyết “Tam quyền phân lập” ra đời vào thế kỷ XVIII. Kế thừa hạt nhân hợp lý của học thuyết này, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã đưa ra những quan điểm mới về tổ chức quyền lực Nhà nước. Theo đó, quyền lực Nhà nước không nằm trong tay một số người mà được phân chia cho các cơ quan Nhà nước khác nhau nhằm dùng quyền lực để hạn chế quyền lực. Mỗi cơ quan Nhà nước khác nhau chỉ được thực hiện một loại quyền lực nhất định, trên một lĩnh vực nhất định, một phạm vi nhất định: Quốc hội thực hiện quyền lập pháp; Chính phủ, Toà án, Viện kiểm sát thực hiện quyền hành pháp và tư pháp. Bản chất của sự phân chia quyền lực này theo Ănggen không phải cái gì khác hơn là “phân công lao động thiết thực áp dụng trong cơ chế Nhà nước nhằm mục đích giản đơn và kiểm tra hoạt động của các cơ quan Nhà nước” [1, tr.203] Theo Từ điển tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam xuất bản năm 1992 thì “thẩm quyền” được hiểu là “quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề nhất định”. Khái niệm “thẩm quyền” thường được hiểu gắn liền với hoạt động của cơ quan, tổ chức, hoặc nhân viên Nhà nước. Sự phân định thẩm quyền này sẽ là điều kiện cần thiết để đảm bảo sự hoạt động đồng bộ, nhịp nhàng, không trùng lặp của bộ máy Nhà nước vốn đã rất phức tạp với nhiều cơ quan, bộ phận cấu thành. Toà án là cơ quan được Quốc hội trực tiếp phân công thực hành quyền xét xử bảo vệ pháp luật, bảo đảm lẽ phải và công bằng xã hội. Theo quy định tại Điều 127 của Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2000 và Điều 1 Luật Tổ chức TAND 2002 thì Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử mà không có bất kỳ một cơ Nuan nhà nước nào có thẩm quyền này, đó là thẩm quyền riêng biệt của Tòa án. Theo định nghĩa về thẩm quyền đã được phân tích ở trên thì thẩm quyền của Tòa án được hiểu chính là tổng hợp những hành vi pháp lý mà Tòa án được thực hiện theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền của Tòa án theo nghĩa rộng không chỉ bao gồm thẩm quyền xét xử mà còn bao gồm thẩm quyền giám đốc việc xét xử, hướng dẫn Toà án áp dụng đúng pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử, giải thích các vấn đề có liên quan đến thực tiễn xét xử, tham gia vào quá trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh Thẩm phán, Hội thẩm ... Việc thực hiện các hành vi trên có mối liên hệ chặt chẽ với việc thực hiện thẩm quyền xét xử, tạo điều kiện tốt cho Tòa án thực hiện việc xét xử. Theo nghĩa hẹp, thẩm quyền của Tòa án được xác định là quyền được xem xét giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật, nó bao gồm tổng hợp các quyền mà pháp luật cho phép Tòa án quyết định đối với các vấn đề liên quan đến nội dung vụ án hoặc đảm bảo cho việc xét xử trong giới hạn hoặc phạm vi nhất định [16, tr.10]. Như vậy, thẩm quyền của Tòa án là một chế định rất rộng bao gồm thẩm quyền về nội dung và thẩm quyền về hình thức [22, tr.345]. Thẩm quyền về hình thức là việc xác định Tòa án được xét xử những vụ án nào và xem xét những vấn đề gì khi xét xử (thẩm quyền xét xử, giới hạn và phạm vi xét xử). Thẩm quyền về nội dung là quyền hạn giải quyết những vấn đề về nội dung vụ án đã được xem xét, những vấn đề bảo đảm cho việc xét xử, hoặc các vấn đề khác của tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động xét xử, ví dụ: quyền ra các quyết định đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án... Trong các nội dung trên, thẩm quyền xét xử, giới hạn xét xử và phạm vi xét xử (thẩm quyền về hình thức) là cơ sở để xác định thẩm quyền quyết định của Tòa án (thẩm quyền nội dung), vì Tòa án chỉ có thể quyết định những vấn đề thuộc phạm vi cho phép và đã được xem xét. Tuy nhiên, những vấn đề thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cũng chỉ có ý nghĩa khi được Tòa án giải quyết bằng một quyết định của Hội đồng xét xử. Ở nước ta, các TAND được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Toà án tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, phúc thẩm; TAND cấp tỉnh và Tòa án quân sự khu vực vừa có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, vừa có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm; TAND cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Thẩm quyền xét xử của Tòa án được hiểu là quyền của Tòa án với việc xét xử (xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án quyết định tố tụng) các VAHS, dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, các khiếu kiện hành chính… theo một trình tự nhất định. Ví dụ: khi có sự việc phạm tội, Tòa án sẽ có thẩm quyền xét xử theo trình tự được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự; khi phát sinh các tranh chấp về kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình… Tòa án sẽ giải quyết theo trình tự được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự; khi có các khiếu kiện về các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cán bộ nhân viên Nhà nước thì Tòa án sẽ giải quyết vụ án hành chính theo trình tự tố tụng hành chính. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm có vai trò quan trọng, để xác định thẩm quyền xét xử phúc thẩm, tái thẩm, giám đốc thẩm. Việc xác định một vụ án có thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của một Tòa án cụ thể hay không cần căn cứ vào những dấu hiệu nhất định. Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh, TAND và Tòa án quân sự đều có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, trong đó việc xét xử sơ thẩm tập chung chủ yếu ở TAND câp huyện. “Sơ thẩm”: là xét xử lần đầu để quyết định tất cả các vấn đề liên quan trong vụ án [24, tr.220]. Từ những phân tích trên chúng tôi có thể đưa ra khái niệm về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND như sau: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh là quyền được tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo trình tự sơ thẩm. 1.1.2. Khái niệm thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án được xác định dựa trên các dấu hiệu sau: Dấu hiệu về lãnh thổ, tức là việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các VAHS của Tòa án căn cứ vào nơi thực hiện tội phạm, nơi tội phạm hoàn thành, nơi kết thúc điều tra gọi là thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ. Dấu hiệu về đối tượng phạm tội, tức là việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các VAHS của Tòa án căn cứ vào đối tượng thực hiện hành vi phạm tội là quân nhân hay thường dân mà xác định thẩm quyền xét xử thuộc về TAND hay Tòa án quân sự gọi là thẩm quyền xét xử theo đối tượng. Dấu hiệu về sự việc phạm tội, tức là việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các VAHS căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tính chất phức tạp của hành vi phạm tội, tội phạm càng nghiêm trọng, càng phức tạp thì đòi hỏi cấp Tòa án và người xét xử có trình độ càng cao gọi là thẩm quyền xét xử theo sự việc. Trong các dấu hiệu trên, việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc các VAHS là rất quan trọng và khó xây dựng nhất vì nó gắn liền với sự trưởng thành và hoàn thiện của Tòa án các cấp, thực tế của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, quan điểm của Đảng và Nhà nước… Mặt khác, việc đánh giá, xác định những yếu tố như tính chất của tội phạm, tính phức tạp và nghiêm trọng của hành vi phạm tội lại mang màu sắc chủ quan của nhà làm luật. Tuy nhiên, khi xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các VAHS của Tòa án thì đồng thời cần phải căn cứ vào cả ba dấu hiệu trên. Nếu bỏ sót một trong ba dấu hiệu có thể sẽ dẫn đến việc xác định sai thẩm quyền, vi phạm thủ tục tố tụng. Như đã phân tích, thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS là thẩm quyền xét xử được xác định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đây là căn cứ được áp dụng để phân định thẩm quyền khi trong hệ thống Tòa án của một nước có hai cấp trở lên cùng có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các VAHS. Ở Việt Nam, Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện đều có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Do vậy, việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa cấp tỉnh và cấp huyện là một tất yếu khách quan để đảm bảo giải quyết nhanh chóng, đúng đắn VAHS. Theo Luật Tổ chức TAND năm 2002, cấp huyện là cấp xét xử thấp nhất có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. TAND cấp huyện bao gồm các TAND được tổ chức theo địa giới hành chính ở các huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh hoặc ở các quận, huyện, thành phố trực thuộc Trung ương. TAND cấp huyện xét xử sơ thẩm những VAHS, dân sự, kinh tế, lao động... theo quy định của pháp luật tố tụng tương ứng. Nếu như việc xét xử những vụ án dân sự, kinh tế, lao động… chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của TAND thì việc xét xử những VAHS, do tính chất của đối tượng phạm tội, nên bên cạnh hệ thống TAND, Tòa án quân sự cũng có thẩm quyền xét xử. Vì vậy, TAND xét xử những tội phạm không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện: Thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện là quyền mà pháp luật cho phép Tòa án nhân dân cấp huyện được tiến hành xem xét, giải quyết vụ án hình sự, ra bản án, quyết định tố tụng theo trình tự sơ thẩm căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm. Như vậy, muốn xác định thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện cần căn cứ vào 2 dấu hiệu, dấu hiệu về tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để phân biệt thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh; dấu hiệu về đối tượng thực hiện hành vi phạm tội để phân biệt thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực. Việc xác định thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện có ý nghĩa rất lớn trong tố tụng hình sự. Từ việc xác định thẩm quyền này ta có thể xác định được thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh, Thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, phúc thẩm của TAND cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), đồng thời còn là cơ sở để xác định thẩm quyền điều tra, truy tố của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả xét xử của Tòa án. Do vậy, các nhà làm luật luôn quan tâm, đánh giá, hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện và coi đó là một trong những quy định trung tâm của pháp luật tố tụng hình sự. 1.2. CƠ SỞ QUY ĐỊNH THẨM QUYỀN XÉT XỬ THEO SỰ VIỆC CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN 1.2.1. Cơ sở lý luận Là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của kiến trúc thượng tầng, phản ánh điều kiện kinh tế của Nhà nước, pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng cần phải được ban hành phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội. Trình độ phát triển của Nhà nước, trình độ nhận thức pháp luật của nhân dân, vấn đề pháp chế và tôn trọng quyền tự do, dân chủ của công dân là những yếu tố quyết định khi xác định thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện. Nhà nước Việt Nam là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ nhất định và sử dụng pháp luật như là công cụ hữu hiệu nhất để thể chế hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương đó đi vào cuộc sống. Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án không thể không dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước. Sự nghiệp đổi mới đã được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá... và đổi mới tư pháp cu