Thăng Long – Hà Nội là một trong những thủ đô của vùng Đông Nam Á, thành phố duy nhất ở vùng này có lịch sử lâu đời và liên tục hàng ngàn năm.
Thăng Long – Hà Nội đã cùng cả nước trải qua bao triều đại, hết thế hệ này đến thế hệ khác, xây đắp nên giang sơn Việt Nam gấm vóc, đồng thời tiến hành những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, chống trả những thế lực xâm lược hùng mạnh nhất trong suốt mười thế kỉ qua.
Lịch sử Thăng Long – Hà Nội gắn liền với lịch sử hào hùng của cả dân tộc Việt Nam. Thăng Long là kinh đô cũ của các triều đại, núi sông tươi sáng, muôn vật phồn thịnh, hàng ngàn năm nay là nơi đại đô hộ của nước ta.
Hàng ngàn năm xưa ấy, lịch sử kinh đô Thăng Long tuy còn lưu đọng trong những trang sử cũ nhưng diện mạo của các cung điện, đền đài, lầu gác, miếu mạo cùng những vật dụng dùng trong Hoàng cung Thăng Long qua các triều đại như thế nào vẫn là điều bí ẩn và là mối quan tâm lớn của giới khoa học và dư luận.
Các quộc khai quật khảo cổ trên mảnh đất này đã làm phát lộ một phức hệ di tích, di vật rất phong phú, đa dạng, cho phép chúng ta hình dung được quy mô hoành tráng và diện mạo cụ thể bộ mặt kinh thành Thăng Long của hơn 1000 năm về trước. Cũng trong những phế tích khảo cổ ngổn ngang ấy, có thể hình dung ra cả một nền nghệ thuật rực rỡ, không chỉ nằm trong ý tưởng và còn hiện diện lộng lẫy trong màu men xanh, trắng đục hay men vàng với những cánh hoa sen tao nhã, những hình rồng cuộn vương giả của kinh kì Thăng Long thời Lý – Trần Nền nghệ thuật ấy chính là một trong những cội nguồn sâu sa tạo nên nét thanh lịch của người Thăng Long – Hà Nội.
70 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2923 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thăng Long thời tiền sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Thăng Long – Hà Nội là một trong những thủ đô của vùng Đông Nam Á, thành phố duy nhất ở vùng này có lịch sử lâu đời và liên tục hàng ngàn năm.
Thăng Long – Hà Nội đã cùng cả nước trải qua bao triều đại, hết thế hệ này đến thế hệ khác, xây đắp nên giang sơn Việt Nam gấm vóc, đồng thời tiến hành những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, chống trả những thế lực xâm lược hùng mạnh nhất trong suốt mười thế kỉ qua.
Lịch sử Thăng Long – Hà Nội gắn liền với lịch sử hào hùng của cả dân tộc Việt Nam. Thăng Long là kinh đô cũ của các triều đại, núi sông tươi sáng, muôn vật phồn thịnh, hàng ngàn năm nay là nơi đại đô hộ của nước ta.
Hàng ngàn năm xưa ấy, lịch sử kinh đô Thăng Long tuy còn lưu đọng trong những trang sử cũ nhưng diện mạo của các cung điện, đền đài, lầu gác, miếu mạo cùng những vật dụng dùng trong Hoàng cung Thăng Long qua các triều đại như thế nào vẫn là điều bí ẩn và là mối quan tâm lớn của giới khoa học và dư luận.
Các quộc khai quật khảo cổ trên mảnh đất này đã làm phát lộ một phức hệ di tích, di vật rất phong phú, đa dạng, cho phép chúng ta hình dung được quy mô hoành tráng và diện mạo cụ thể bộ mặt kinh thành Thăng Long của hơn 1000 năm về trước. Cũng trong những phế tích khảo cổ ngổn ngang ấy, có thể hình dung ra cả một nền nghệ thuật rực rỡ, không chỉ nằm trong ý tưởng và còn hiện diện lộng lẫy trong màu men xanh, trắng đục hay men vàng với những cánh hoa sen tao nhã, những hình rồng cuộn vương giả của kinh kì Thăng Long thời Lý – Trần… Nền nghệ thuật ấy chính là một trong những cội nguồn sâu sa tạo nên nét thanh lịch của người Thăng Long – Hà Nội.
Nhóm biên soạn
NHỮNG Ý CHÍNH CỦA PHẦN TẬP SAN:
Thăng Long là kinh đô của nước Đại Việt thời Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung hưng (1010 - 1788).
Lịch sử
Năm 1010, tương truyền khi vua Lý Công Uẩn Hoa Lư đến đất Đại La thì thấy rồng bay lên nên gọi tên kinh đô mới là Thăng Long, hay "rồng bay lên" theo nghĩa Hán Việt. Ngày nay tên Thăng Long còn dùng trong văn chương, trong những cụm từ như "Thăng Long ngàn năm văn vật"... Năm 2010, là kỷ niệm 1 thiên niên kỷ của Thăng Long – Hà Nội.
Năm 1243, nhà Trần tôn tạo sửa đổi và gọi Thăng Long là Long Phượng. Cuối thời Trần, Hồ Quý Ly cho đặt tên là Đông Đô
Năm 1428, Lê Lợi đặt kinh đô tại Thăng Long và đổi tên là Đông Kinh, vào khoảng thế kỷ 16, khi Đông Kinh trở thành một đô thị sầm uất, có cả người Châu Âu đến buôn bán, thì trong dân gian bắt đầu gọi Đông Kinh là Kẻ Chợ
Năm 1805, sau khi thống nhất đất nước, nhà Nguyễn đặt kinh đô tại Phú Xuân (Huế) và cho phá thành Thăng Long để xây thành theo phương pháp của phương Tây do kỹ sư Pháp giúp đỡ.
Từ tháng 12 năm 2002 đến nay, trên khu vực thuộc Hoàng thành Thăng Long xưa (khu vực giữa các phố Hoàng Diệu, Hoàng Văn Thụ, Độc Lập, Bắc Sơn ở Hà Nội), các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật trên một diện tích khoảng hơn 19 nghìn m², phát lộ một phức hệ di tích-di vật rất phong phú, đa dạng từ La Thành-Đại La (thế kỉ 7-9) đến thành Thăng Long (thế kỉ 11-18) và thành Hà Nội (thế kỉ 19).
Chương I: Thăng Long thời Lý
Thăng Long thời Lý là một kinh thành phong kiến.Trên hết là vua.Bình thường vua mặc áo vàng,quần tía.Răng đen,tóc búi,cài trâm vàng.Quan lại,sĩ phu mặc áo dài thâm,cổ vòng trên cài khít 4 vạt(tứ thân),quần thâm,búi tóc,cài trâm sắt,chân đi dép da,tay cầm quạt lông hạc,đầu quấn khăn sa đen,đỉnh tròn nhỏ.Vào đến hoàng cung thì quan lại đều phải cởi dép,đi chân không,trời mưa nắng đều phải đội nón.Dân thường đi chân đất,đàn ông mặc áo màu thâm,đàn bà dùng màu trắng,áo cánh viền cổ nhỏ,tai đeo khuyên hạc.Quân sĩ đóng khố, cởi trần.Quân Cấm Vệ trên trán khắc 3 chữ Hán ''THiên tử binh'' , xăm ngực, xăm đùi và xăm bụng.Từ vua đến dân ai cũng xăm mình.Mô típ trang trí trên thân thể hoặc hình rồng hoặc ''vẽ như lối văn khắc trên trống đồng''hay văn hình móc câu khuất khúc như trên đỉnh đồng,lư đồng thời cổ.Tóc thường gội dầu thơm, lúc ở nhà để đầu trần, khách tới thăm mới đội khăn.Vào triều yết kiến, trăm quan mặc áo bào tía,cầm hốt ngà,thắt da đỏ,nặn sừng tê giác,sau thôm hình cá bằng vàng.Võng cáng giống Chiêm Thành,Chân Lạp.Võng bằng vải,như cái túi,dùng đòn dài để khiêng trên có mui dài dùng lá cây trang trí như lớp vẩy cá.Quan đi võng 2 người khiêng,hai người đi theo hộ giá.Về sau,cuối thế kỷ XII mới bắt chước Trung Quốc làm kiệu đều ngắn,mưa tạnh đều dùng được.Vua ngồi xe giát ngọc,giát vàng,quạt lông trĩ ,che hai bên,màn cửa võng bằng bạc rũ bốn phía,lọng vàng giương trên cao,cờ các sắc phấp phới...Cấm quân mới được thích rồng ở đùi,xăm ở ngực.Cấm gia nô và các vương hầu,quan liêu bắt chước Cấm quân xâm hình rồng lên người,ai vi phạm bị sung công làm nô lệ.Đứng đầu người trên phải khoanh tay,yết kiến vương hầu quý tộc phải quỳ lạy hay vái ba cái.Từ vua đến thường dân đều nhuộm răng đen,ai cũng thích ăn trầu cau,thích ăn chua và ăn mặn.Vua ở nhà lầu 4 tầng, cột sơn son,vẽ rồng hạc và tiên nữ.Dân ở nhà tranh,vách đất,3 gian,mái lợp cỏ, lá.Trời nóng nực,toàn dân kinh thành thích ra sông tắm,ai nấy đều giỏi bơi lội,giỏi chèo.Mùa mưa lũ cả kinh thành đều đi lại bằng thuyền.Thuyền lầu của vua quan,thuyền nan của dân.Thuyền vua là cả một tòa nhà nguy nga,tráng lệ...Thăng Long, một thời giao thương Nội, đất kinh kỳ hay còn gọi Thăng Long - Kẻ Chợ. Mối giao lưu buôn bán của Hà Nội có từ rất lâu, nó gắn liền với việc hình thành và phát triển kinh thành Thăng Long. Từ thời Lý, quan hệ buôn bán giữa Việt Nam với nước ngoài đã có những mở mang nhất định. Trong Đại Việt Sử ký toàn thư có ghi sự kiện vào năm 1149, đời Lý Anh Tông, thuyền buôn các nước lndonesia, Xiêm La… đến vùng Hải Đông (gồm Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh) xin cư trú và buôn bán. Trong các bạn hàng, Trung Quốc là nước có quan hệ buôn bán lâu đời với Việt Nam. Hằng năm, thương thuyền Trung Hoa vẫn qua lại buôn bán với nước ta. Các thương nhân người Hoa thường đến vào mùa gió đông và đi vào mùa hạ. Họ cập bến tại Vân Đồn (Quảng Ninh), Vị Hoàng (Nam Định), Phố Hiến (Hưng Yên) và ngược theo sông Hồng đến Thăng Long - Kẻ Chợ để buôn bán. Thủ tục đầu tiên là các chủ thuyền phải nộp thuế và lễ vật cho triều đình phong kiến. Hàng hóa các thương nhân đem đến chủ yếu là vải vóc, giấy bút, đồ đồng, đồ sứ, diêm sinh, khí giới. Họ mua về hồ tiêu, đường, gỗ, hương liệu, lâm thổ sản... Những công việc trao đổi buôn bán này chủ yếu diễn ra qua mạng lưới chợ. Chợ Thăng Long xưa rất nhộn nhịp sầm uất, bởi Thăng Long ngoài trung tâm đầu não của nhà nước phong kiến còn ở vào địa thế giao thông thuận lợi cho các mối giao thông buôn bán. Phía đông dọc theo hệ thống sông Lực Nam, sông Thái Bình có thể ra vùng Hải Phòng, Quảng Ninh, phía nam theo hệ thống sông Hồng, sông Đáy, sông Vị Hoàng có thể ra Nam Định, Ninh Bình, phía bắc có đường bộ từ Lào Cai, Lạng Sơn rất thuận tiện cho việc buôn bán bằng đường bộ với Trung Quốc. Song có một điều là tất cả những con đường đó đều dẫn tới kinh thành Thăng Long phồn hoa và náo nhiệt. Theo thống kê của nhà sử học Phan Huy Chú thì thế kỷ XVIII Thăng Long có 8 chợ lớn là chợ Cửa Đông, chợ Cửa Nam, chợ Huyện, chợ Đình Ngang, chợ Bà Đá, chợ Văn Cử, chợ Bắc Cử, chợ Ong Nước. Đến thế kỷ XIX thêm chợ Đông Thành, chợ Yên Thọ (ô Cầu Dền), chợ Thái (Bưởi). Chợ tạo ra sự giao lưu trao đổi thông thương buôn bán giữa nông thôn với thành thị, giữa những người nông dân với tầng lớp thị dân (bao gồm cả quan lại quý tộc, vua, chúa). Chợ Thăng Long ngày trước cũng mang nhiều dáng vẻ cung bậc khác nhau: Có chợ họp buổi sớm, chợ họp buổi chiều, chợ phiên, chợ ven đê, chợ trên sông... Có chợ kinh doanh chủ yếu một mặt hàng, có chợ phong phú đa dạng nhiều mặt hàng. Thương nghiệp chợ kinh thành bao gồm những người buôn bán chuyên nghiệp, chủ yếu là thị dân gốc tại đây họ có lều, quán và địa điểm cố định như các hàng vải, hàng xén, hàng mắm, hàng thịt, hàng cá… Bên cạnh đó, số lượng các tiểu thương, tiểu chủ cũng không nhỏ, họ thường là những thợ thủ công kiêm thương nhân, tự sản xuất, giới thiệu và bán những sản phẩm thủ công của mình. Trong tầng lớp những người buôn bán còn xuất hiện một số nông dân lên kinh thành chạy chợ, lấy công làm lãi để tận dụng lao động nông nhàn. Ngoài ra phổ biến hơn cả là những người tiểu nông (nông dân ở các vùng phụ cận) đem những sản phẩm của mình (chủ yếu là nông phẩm) sản xuất được ra bán. Hệ thống chợ ở Thăng Long ngày trước thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong nền kinh tế tiểu nông phát triển, tạo ra sự giao lưu đối thoại thường trực giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các miền, rộng ra là các nước với nhau, qua đó các sắc thái văn hóa của từng địa phương cũng có sự giao thoa đan xen hòa quyện với nhau tạo lên một văn hóa rất đặc trưng mà ngày nay chúng ta vẫn thường gọi là văn hóa chợ Hà Nội. Trước đây, buôn bán thương mại ở Thăng Long chủ yếu nằm trong phạm vi hoạt động của người Việt. Nhưng từ thế kỷ XVII-XVIII, xuất hiện thêm một số thương điếm của các thương nhân nước ngoài. Năm 1672, đại diện toàn quyền Anh là Gyfford, đi trên tàu Zant đến Đàng ngoài và lập được thương điếm ở Phố Hiến, sau thương điếm này rời lên Thăng Long. Cũng vào đầu thế kỷ XVII, lúc ưu thế buôn bán của Hà Lan vượt lên so với các nước khác. Năm 1602, công ty Đông Ấn Hà Lan thành lập, công ty này có thế lực rất lớn, được nhà nước Hà Lan đầu tư về mọi mặt. Năm 1637, đại diện của phái đoàn công ty Đông Ấn Hà Lan VOC là Hartsinc, đi trên chiếc tàu Grol đã cập bến ở Đàng ngoài. Haltsinc gặp vua Lê Thần Tông một nhân vật trung gian có tên là Oursan. Cuộc gặp gỡ thành công tốt đẹp, vua Lê Thần Tông nhận Hartsinc làm con nuôi và cho phép lập thương điếm ở Phố Hiến. Năm 1645, thương điếm này mở thêm chi nhánh lên Kẻ Chợ. Vậy là cho đến giữa thế kỷ XVII, người Hà Lan có hai thương điếm ở Đàng ngoài, một ở phố Hiến, một ở Thăng Long - Kẻ Chợ. Qua việc giao thương buôn bán với các nước phương Tây một số kỹ thuật được đưa vào Việt Nam như kỹ nghệ đúc súng, kỹ thuật đóng tàu, nghề làm đồng hồ… Sự nhộn nhịp của hệ thống chợ, phường nghề phố nghề tại Thăng Long góp phần tích cực để duy trì thúc đẩy các nghề thủ công nghiệp truyền thống tồn tại phát triển. Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo như khảm, gốm sứ, mây, tre, chiếu cói bày bán tại kinh thành Thăng Long không chỉ phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng cho tầng lớp thị dân mà dáng vẻ thẩm mỹ và tính chất tinh xảo độc đáo của những mặt hàng này là yếu tố quan trọng thu hút thương nhân nhiều nước đến đây buôn bán. Giá trị những sản phẩm thủ công mỹ nghệ này không chỉ đơn thuần ở ý nghĩa sử dụng, biểu trưng nổi bật chính là những nét văn hóa dân gian được bàn tay khối óc của các nghệ nhân nhào nặn trong đó, qua đó phần nào phản ánh những ước mơ hoài bão cũng như tâm hồn nghệ thuật của con người Việt Nam.
Thăng Long thời Lý là một kinh thành phong kiến.Trên hết là vua.Bình thường vua mặc áo vàng,quần tía.Răng đen,tóc búi,cài trâm vàng.Quan lại,sĩ phu mặc áo dài thâm,cổ vòng trên cài khít 4 vạt(tứ thân),quần thâm,búi tóc,cài trâm sắt,chân đi dép da,tay cầm quạt lông hạc,đầu quấn khăn sa đen,đỉnh tròn nhỏ.Vào đến hoàng cung thì quan lại đều phải cởi dép,đi chân không,trời mưa nắng đều phải đội nón.Dân thường đi chân đất,đàn ông mặc áo màu thâm,đàn bà dùng màu trắng,áo cánh viền cổ nhỏ,tai đeo khuyên hạc.Quân sĩ đóng khố, cởi trần.Quân Cấm Vệ trên trán khắc 3 chữ Hán ''THiên tử binh'' , xăm ngực, xăm đùi và xăm bụng.Từ vua đến dân ai cũng xăm mình.Mô típ trang trí trên thân thể hoặc hình rồng hoặc ''vẽ như lối văn khắc trên trống đồng''hay văn hình móc câu khuất khúc như trên đỉnh đồng,lư đồng thời cổ.Tóc thường gội dầu thơm, lúc ở nhà để đầu trần, khách tới thăm mới đội khăn.Vào triều yết kiến, trăm quan mặc áo bào tía,cầm hốt ngà,thắt da đỏ,nặn sừng tê giác,sau thôm hình cá bằng vàng.Võng cáng giống Chiêm Thành,Chân Lạp.Võng bằng vải,như cái túi,dùng đòn dài để khiêng trên có mui dài dùng lá cây trang trí như lớp vẩy cá.Quan đi võng 2 người khiêng,hai người đi theo hộ giá.Về sau,cuối thế kỷ XII mới bắt chước Trung Quốc làm kiệu đều ngắn,mưa tạnh đều dùng được.Vua ngồi xe giát ngọc,giát vàng,quạt lông trĩ ,che hai bên,màn cửa võng bằng bạc rũ bốn phía,lọng vàng giương trên cao,cờ các sắc phấp phới...Cấm quân mới được thích rồng ở đùi,xăm ở ngực.Cấm gia nô và các vương hầu,quan liêu bắt chước Cấm quân xâm hình rồng lên người,ai vi phạm bị sung công làm nô lệ.Đứng đầu người trên phải khoanh tay,yết kiến vương hầu quý tộc phải quỳ lạy hay vái ba cái.Từ vua đến thường dân đều nhuộm răng đen,ai cũng thích ăn trầu cau,thích ăn chua và ăn mặn.Vua ở nhà lầu 4 tầng, cột sơn son,vẽ rồng hạc và tiên nữ.Dân ở nhà tranh,vách đất,3 gian,mái lợp cỏ, lá.Trời nóng nực,toàn dân kinh thành thích ra sông tắm,ai nấy đều giỏi bơi lội,giỏi chèo.Mùa mưa lũ cả kinh thành đều đi lại bằng thuyền.Thuyền lầu của vua quan,thuyền nan của dân.Thuyền vua là cả một tòa nhà nguy nga,tráng lệ...Thăng Long, một thời giao thương Nội, đất kinh kỳ hay còn gọi Thăng Long - Kẻ Chợ. Mối giao lưu buôn bán của Hà Nội có từ rất lâu, nó gắn liền với việc hình thành và phát triển kinh thành Thăng Long. Từ thời Lý, quan hệ buôn bán giữa Việt Nam với nước ngoài đã có những mở mang nhất định. Trong Đại Việt Sử ký toàn thư có ghi sự kiện vào năm 1149, đời Lý Anh Tông, thuyền buôn các nước lndonesia, Xiêm La… đến vùng Hải Đông (gồm Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh) xin cư trú và buôn bán. Trong các bạn hàng, Trung Quốc là nước có quan hệ buôn bán lâu đời với Việt Nam. Hằng năm, thương thuyền Trung Hoa vẫn qua lại buôn bán với nước ta. Các thương nhân người Hoa thường đến vào mùa gió đông và đi vào mùa hạ. Họ cập bến tại Vân Đồn (Quảng Ninh), Vị Hoàng (Nam Định), Phố Hiến (Hưng Yên) và ngược theo sông Hồng đến Thăng Long - Kẻ Chợ để buôn bán. Thủ tục đầu tiên là các chủ thuyền phải nộp thuế và lễ vật cho triều đình phong kiến. Hàng hóa các thương nhân đem đến chủ yếu là vải vóc, giấy bút, đồ đồng, đồ sứ, diêm sinh, khí giới. Họ mua về hồ tiêu, đường, gỗ, hương liệu, lâm thổ sản... Những công việc trao đổi buôn bán này chủ yếu diễn ra qua mạng lưới chợ. Chợ Thăng Long xưa rất nhộn nhịp sầm uất, bởi Thăng Long ngoài trung tâm đầu não của nhà nước phong kiến còn ở vào địa thế giao thông thuận lợi cho các mối giao thông buôn bán. Phía đông dọc theo hệ thống sông Lực Nam, sông Thái Bình có thể ra vùng Hải Phòng, Quảng Ninh, phía nam theo hệ thống sông Hồng, sông Đáy, sông Vị Hoàng có thể ra Nam Định, Ninh Bình, phía bắc có đường bộ từ Lào Cai, Lạng Sơn rất thuận tiện cho việc buôn bán bằng đường bộ với Trung Quốc. Song có một điều là tất cả những con đường đó đều dẫn tới kinh thành Thăng Long phồn hoa và náo nhiệt. Theo thống kê của nhà sử học Phan Huy Chú thì thế kỷ XVIII Thăng Long có 8 chợ lớn là chợ Cửa Đông, chợ Cửa Nam, chợ Huyện, chợ Đình Ngang, chợ Bà Đá, chợ Văn Cử, chợ Bắc Cử, chợ Ong Nước. Đến thế kỷ XIX thêm chợ Đông Thành, chợ Yên Thọ (ô Cầu Dền), chợ Thái (Bưởi). Chợ tạo ra sự giao lưu trao đổi thông thương buôn bán giữa nông thôn với thành thị, giữa những người nông dân với tầng lớp thị dân (bao gồm cả quan lại quý tộc, vua, chúa). Chợ Thăng Long ngày trước cũng mang nhiều dáng vẻ cung bậc khác nhau: Có chợ họp buổi sớm, chợ họp buổi chiều, chợ phiên, chợ ven đê, chợ trên sông... Có chợ kinh doanh chủ yếu một mặt hàng, có chợ phong phú đa dạng nhiều mặt hàng. Thương nghiệp chợ kinh thành bao gồm những người buôn bán chuyên nghiệp, chủ yếu là thị dân gốc tại đây họ có lều, quán và địa điểm cố định như các hàng vải, hàng xén, hàng mắm, hàng thịt, hàng cá… Bên cạnh đó, số lượng các tiểu thương, tiểu chủ cũng không nhỏ, họ thường là những thợ thủ công kiêm thương nhân, tự sản xuất, giới thiệu và bán những sản phẩm thủ công của mình. Trong tầng lớp những người buôn bán còn xuất hiện một số nông dân lên kinh thành chạy chợ, lấy công làm lãi để tận dụng lao động nông nhàn. Ngoài ra phổ biến hơn cả là những người tiểu nông (nông dân ở các vùng phụ cận) đem những sản phẩm của mình (chủ yếu là nông phẩm) sản xuất được ra bán. Hệ thống chợ ở Thăng Long ngày trước thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong nền kinh tế tiểu nông phát triển, tạo ra sự giao lưu đối thoại thường trực giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các miền, rộng ra là các nước với nhau, qua đó các sắc thái văn hóa của từng địa phương cũng có sự giao thoa đan xen hòa quyện với nhau tạo lên một văn hóa rất đặc trưng mà ngày nay chúng ta vẫn thường gọi là văn hóa chợ Hà Nội. Trước đây, buôn bán thương mại ở Thăng Long chủ yếu nằm trong phạm vi hoạt động của người Việt. Nhưng từ thế kỷ XVII-XVIII, xuất hiện thêm một số thương điếm của các thương nhân nước ngoài. Năm 1672, đại diện toàn quyền Anh là Gyfford, đi trên tàu Zant đến Đàng ngoài và lập được thương điếm ở Phố Hiến, sau thương điếm này rời lên Thăng Long. Cũng vào đầu thế kỷ XVII, lúc ưu thế buôn bán của Hà Lan vượt lên so với các nước khác. Năm 1602, công ty Đông Ấn Hà Lan thành lập, công ty này có thế lực rất lớn, được nhà nước Hà Lan đầu tư về mọi mặt. Năm 1637, đại diện của phái đoàn công ty Đông Ấn Hà Lan VOC là Hartsinc, đi trên chiếc tàu Grol đã cập bến ở Đàng ngoài. Haltsinc gặp vua Lê Thần Tông một nhân vật trung gian có tên là Oursan. Cuộc gặp gỡ thành công tốt đẹp, vua Lê Thần Tông nhận Hartsinc làm con nuôi và cho phép lập thương điếm ở Phố Hiến. Năm 1645, thương điếm này mở thêm chi nhánh lên Kẻ Chợ. Vậy là cho đến giữa thế kỷ XVII, người Hà Lan có hai thương điếm ở Đàng ngoài, một ở phố Hiến, một ở Thăng Long - Kẻ Chợ. Qua việc giao thương buôn bán với các nước phương Tây một số kỹ thuật được đưa vào Việt Nam như kỹ nghệ đúc súng, kỹ thuật đóng tàu, nghề làm đồng hồ… Sự nhộn nhịp của hệ thống chợ, phường nghề phố nghề tại Thăng Long góp phần tích cực để duy trì thúc đẩy các nghề thủ công nghiệp truyền thống tồn tại phát triển. Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo như khảm, gốm sứ, mây, tre, chiếu cói bày bán tại kinh thành Thăng Long không chỉ phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng cho tầng lớp thị dân mà dáng vẻ thẩm mỹ và tính chất tinh xảo độc đáo của những mặt hàng này là yếu tố quan trọng thu hút thương nhân nhiều nước đến đây buôn bán. Giá trị những sản phẩm thủ công mỹ nghệ này không chỉ đơn thuần ở ý nghĩa sử dụng, biểu trưng nổi bật chính là những nét văn hóa dân gian được bàn tay khối óc của các nghệ nhân nhào nặn trong đó, qua đó phần nào phản ánh những ước mơ hoài bão cũng như tâm hồn nghệ thuật của con người Việt Nam.
Chương II: Thăng Long thơì Trần
(1226-1400)
Nhà Lý chính thức chấm dứt sự thống trị của mình vào ngày mồng 1 tháng Chạp năm Ất Dậu (1226), khi Lý Chiêu Hoàng dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ đã xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.
Nhà Trần thay nhà Lý trên chính trường chính trị, đồng thời cũng thay nhà Lý mở ra một thời kỳ mới phát triển cao hơn của xã hội Đại Việt: vững vàng, năng động, thống nhất và ổn định cho đến giữa thế kỷ XV. Thăng Long thời Trần vẫn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá lớn nhất của Đại Việt bấy giờ. Cuộc chuyển giao triều chính diễn ra một cách hoà bình đã không làm cho Thăng Long thay đổi nhiều. Về kiến trúc vẫn như thời Lý, nhiều cung điện trong Hoàng thành và Cấm thành vẫn giữ nguyên. Nhà Trần ngoài việc trùng tu các công trình cũ còn xây dựng một số công trình kiến trúc mới ở Thăng Long: lập Viện quốc học, Giảng võ đường... Kinh thành chia làm 61 phường, bao gồm cả phường buôn, phường thợ và phường làm nông nghiệp. Một số tên phường trong thời kỳ này còn thấy lác đác ghi trong sử sách cũ như: Thái Hoà, Báo Thiên, Phủng Nhật, Cơ Xá, Bố Cái, Hạc Kiều, Thịnh Quang, Toán Viên...
Việc buôn bán giữa Thăng Long và các địa phương đã bắt đầu phát triển. Sông Tô Lịch thành nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền. Khách buôn từ khắp nơi đều theo sông Hồng, qua cửa Hà Khẩu vào sông Tô để đưa hàng vào kinh thành. Việc năm 1400 Hồ Quý Ly đánh thuế thuyền buôn đã chứng tỏ hình thức buôn bán bằng đường thuỷ ở Thăng Long thời gian này khá hưng thịnh.
Sự kiện năm 1282 vua Trần Thánh Tôn đi xe từ kinh thành đến Bình Than (Chí Linh-Hải Hưng) để hội chư quân cho phép chúng ta khẳng định tuyến đường bộ thời ấy đã tương đối rộng rãi và thông thương thuận tiện. Đây chính là những tiền đề cần thiết cho các hoạt động kinh tế và thươ