Đề tài Thị trường lương thực thế giới thời kì sau khủng hoảng lương thực 2007 - 2008 đến nay

Từ sau khủng hoảng, sản lượng gạo những năm gần đây có tăng, tuy nhiên sản lượng ngũ cốc và lúa mì ở các nước thì lại giảm. Trong 10 năm gần đây, sản lượng lúa thế giới đ ã tăng 75 triệu tấn, chủ yếu là do áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Với những nỗ lực và thành tựu to lớn đó, nhiều quốc gia đã tự túc được lương thực, góp phần bảo đảm an ninh lương thực cho khu vực và toàn cầu. Theo tính toán, tới năm 2030 sản lượng lúa của thế giới có thể tăng thêm 60% so với sản lượng năm 1995. Trong nhiều năm qua, sản xuất lúa gạo đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Năm 2009, diện tích lúa toàn thế giới đ ạt 161 triệu hécta với sản lượng 679 triệu tấn, năng suất 4,2 tấn/ha. So với năm 1961, diện tích lúa tăng 50 triệu ha, sản lượng tăng 470 triệu tấn và năng suất tăng 2,25 lần. Trong 10 năm gần đây, sản lượng lúa thế giới đ ã tăng 75 triệu tấn, chủ y ếu là do áp dụng tiến bộ kỹ thu ật. Với những nỗ lực và thành tựu to lớn đó, nhiều quốc gia đã tự túc đư ợc lương thực, góp phần bảo đảm an ninh lương thực cho khu vực và toàn cầu. _ Tại Việt Nam, sản lượng gạo trong nước sẽ đạt 37 triệu tấn, tăng 4,7% so với năm 2009. Ước tính, sản lượng gạo năm 2010 của Việt Nam đạt thêm 1,6% lên 37,6 triệu tấn. Với Việt Nam, từ một đất nước phải triền miên nhập khẩu lương thực, chúng ta đã vươn lên vị trí "cường quốc" xuất kh ẩu gạo, năm 2010 đạt sản lượng gần 7 triệu tấn xuất ra thị trường thế giới.

pdf25 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1994 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường lương thực thế giới thời kì sau khủng hoảng lương thực 2007 - 2008 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài thảo luận môn: Thương mại quốc tế Đề tài: Thị trường lương thực thế giới thời kì sau khủng hoảng lương thực 2007-2008 đến nay. I. Tình hình sản xuất lương thực thế giới từ sau khủng hoảng đến nay: 1. Tổng quan về sản lượng lương thực thế giới Từ sau khủng hoảng, sản lượng gạo những năm gần đây có tăng, tuy nhiên sản lượng ngũ cốc và lúa mì ở các nước thì lại giảm. Trong 10 năm gần đây, sản lượng lúa thế giới đã tăng 75 triệu tấn, chủ yếu là do áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Với những nỗ lực và thành tựu to lớn đó, nhiều quốc gia đã tự túc được lương thực, góp phần bảo đảm an ninh lương thực cho khu vực và toàn cầu. Theo tính toán, tới năm 2030 sản lượng lúa của thế giới có thể tăng thêm 60% so với sản lượng năm 1995. Trong nhiều năm qua, sản xuất lúa gạo đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Năm 2009, diện tích lúa toàn thế giới đạt 161 triệu hécta với sản lượng 679 triệu tấn, năng suất 4,2 tấn/ha. So với năm 1961, diện tích lúa tăng 50 triệu ha, sản lượng tăng 470 triệu tấn và năng suất tăng 2,25 lần. Trong 10 năm gần đây, sản lượng lúa thế giới đã tăng 75 triệu tấn, chủ yếu là do áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Với những nỗ lực và thành tựu to lớn đó, nhiều quốc gia đã tự túc được lương thực, góp phần bảo đảm an ninh lương thực cho khu vực và toàn cầu. _ Tại Việt Nam, sản lượng gạo trong nước sẽ đạt 37 triệu tấn, tăng 4,7% so với năm 2009. Ước tính, sản lượng gạo năm 2010 của Việt Nam đạt thêm 1,6% lên 37,6 triệu tấn. Với Việt Nam, từ một đất nước phải triền miên nhập khẩu lương thực, chúng ta đã vươn lên vị trí "cường quốc" xuất khẩu gạo, năm 2010 đạt sản lượng gần 7 triệu tấn xuất ra thị trường thế giới. Về mặt lý thuyết, lúa có khả năng cho sản lượng cao hơn nữa, song điều kiện canh tác như hệ thống tưới tiêu, chất lượng đất, biện pháp thâm canh và biến đổi khí hậu đang ngăn cản xu thế trên. Hàng loạt yếu tố tiêu cực về thiên nhiên và môi trường nếu không cải thiện, đến năm 2050, sản lượng lương thực toàn cầu sẽ giảm 25%, giá lương thực sẽ có thể tăng từ 30-50%. _ Tại Nga, hơn 20% vụ mùa bị phá hủy. ước tính làm giảm một phần tư sản lượng ngũ cốc của Nga trong vụ này. Dự báo, tổng sản lượng ngũ cốc năm 2010 của Nga chỉ đạt 60 đến 65 triệu tấn, giảm mạnh so mức 97 triệu tấn năm 2009 và 108 triệu tấn năm 2008. Các chuyên gia cảnh báo, mức thiệt hại do thiên tai tại quốc gia chiếm 8% sản lượng lúa mì thế giới này có thể làm giảm 1,6% tổng nguồn cung lúa mì toàn cầu. Tình hình xấu đến mức các chuyên gia cảnh báo Nga có thể phải nhập khẩu tới năm triệu tấn ngũ cốc trong niên vụ 2010 - 2011 và là lần đầu trong mười năm qua. Chính phủ Nga bác bỏ việc phải nhập khẩu ngũ cốc, nhưng ban hành lệnh cấm tạm thời việc xuất khẩu ngũ cốc, từ ngày 15-8 đến hết 31-12 năm 2010. Tổng thống Nga Ð.Mét-vê-đép chỉ thị Chính phủ theo dõi chặt chẽ tình hình giá cả, ngăn chặn đầu cơ lương thực. _ Tại Trung Quốc, theo Cơ quan Dự trữ lương thực quốc gia Trung Quốc, sản lượng gạo của nước này năm 2010 ước giảm khoảng 10%. Tại nhiều vùng sản xuất lúa chủ yếu bị ảnh hưởng lũ lụt, như Giang Tây và An Huy, sản lượng có thể giảm tới 20% hoặc 30% _ Tại Ca-na-đa, nước xuất khẩu lúa mì lớn nhất thế giới, ước tính sản lượng lúa mì năm 2010 của nước này giảm tới 36%. _ Tại các vùng châu thổ và duyên hải địa hình thấp tại châu Á, diện tích vùng trồng lúa bị giảm cùng với lượng khí thải CO2 và nhiệt độ tăng có thể làm giảm 10% sản lượng lúa gạo. _ Áp-ga-ni-xtan đứng đầu tốp mười quốc gia có nguy cơ lớn nhất về an ninh lương thực. 36 trong 50 quốc gia được cảnh báo đối mặt nguy cơ cao về lương thực là các nước ở khu vực nam sa mạc Xa-ha-ra ở châu Phi. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp LHQ (FAO) cảnh báo sẽ hạ mức dự báo sản lượng lúa mì của thế giới trong năm 2010, thậm chí không đưa ra dự đoán về sản lượng của Nga. Sau Nga, một số nước xuất khẩu ngũ cốc lớn như U-crai-na và Ca-dắc-xtan, hai vựa lúa mì khác của thế giới, cũng cân nhắc việc tạm ngừng xuất khẩu mặt hàng này, nhằm bảo đảm an toàn lương thực và kiềm chế tăng giá lương thực trong nước. Tuy nhiên,tại thời điểm hiện nay tình hình lương thực của thế giới vẫn chưa tới ngưỡng nguy hiểm: Tỷ lệ dự trữ lương thực ở mức 26%, cao hơn mức 20% khi xảy ra khủng hoảng lương thực năm 2008. Trong đó phải kể đến các kho dự trữ gạo lớn, như Trung Quốc 40 triệu tấn, Ấn Ðộ 30 triệu tấn... Dự báo vụ mùa bội thu sắp tới ở Ô-xtrây-li-a và Mỹ nhờ thời tiết thuận lợi có thể góp phần làm giảm sức ép về giá lương thực trên thế giới 2. *Phân tích những nguyên nhân dẫn đến thay đổi trong sản lượng lương thực của thế giới a. Nguyên nhân dẫn đến ảnh hưởng tích cực: _ Áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trong vòng 10 năm gần đây, sản lượng lúa thế giới đã tăng 75 triệu tấn do đó nhiều quốc gia đã tự túc được lương thực, góp phần bảo đảm an ninh lương thực cho khu vực và toàn cầu. _ Nhờ sự nỗ lực của nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế, sản xuất lúa gạo đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Những giải pháp mang tính đột phá trong sản xuất nông nghiệp nhằm giải quyết các vến đề an ninh lương thực, phát huy tối đa sức mạnh của cây lúa là vấn đề chính được 1.700 nhà quản lý, khoa học, nhà hoạch định chính sách, nông dân... hàng đầu về ngành lúa gạo của 60 quốc gia bàn bạc trong suốt 5 ngày diễn ra Hội nghị lúa gạo quốc tế lần thứ 3. Kết quả rất khả quan: Sản lượng lúa thế giới tăng 470 triệu tấn trong nửa thế kỷ. _ Nhờ sự ổn định chính trị, xã hội; góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể thấy những tấc động tích cực đó đã góp phần làm cho sản lượng của các quốc gia sản xuất lương thực nói chung mà của cả thế giới nói riêng. b. Nguyên nhân dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực: _Phải đối đầu với rất nhiều khó khăn thách thức, nổi lên là diện tích đất nông nghiệp ngày một giảm, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp… các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt bất thường, hậu quả trực tiếp từ tình trạng biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh sẽ dẫn đến sụt giảm sản lượng lương thực, đe dọa an ninh lương thực toàn cầu gây bất ổn tại nhiều khu vực đang đẩy giá lương thực lên cao. Nắng nóng, khô hạn, lũ lụt làm sụt giảm sản lượng nông nghiệp. Hiểm họa nước biển dâng có thể khiến 20 triệu ha đất các khu vực trồng lúa gạo bị nhấn chìm. Thêm vào đó là mối nguy từ lượng khí CO2 và nhiệt độ tăng. Nhiệt độ ban đêm tăng thêm 1 độ có thể làm giảm 10% sản lượng lúa gạo Theo như giới chuyên gia vẫn cảnh báo, các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt bất thường, hậu quả trực tiếp từ tình trạng biến đổi khí hậu, sẽ dẫn đến sụt giảm sản lượng lương thực, đe dọa an ninh lương thực toàn cầu. Báo cáo của Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế cho rằng, hiện tượng tan băng khiến nước biển dâng trung bình một mét vào cuối thế kỷ 21 sẽ gây tác hại nghiêm trọng các diện tích lúa được trồng tại các vùng châu thổ và duyên hải địa hình thấp tại châu Á. Lượng khí thải CO2 và nhiệt độ tăng có thể làm giảm 10% sản lượng lúa gạo. Ví dụ như đợt nắng nóng và khô hạn vừa qua được ghi nhận là nghiêm trọng nhất trong 130 năm qua ở Nga, kèm theo cháy rừng trên diện rộng đã phá hủy hơn 20% vụ mùa, ước tính làm giảm một phần tư sản lượng ngũ cốc của Nga trong vụ này. Dự báo, tổng sản lượng ngũ cốc năm nay của Nga chỉ đạt 60 đến 65 triệu tấn, giảm mạnh so mức 97 triệu tấn năm 2009 và 108 triệu tấn năm 2008. _ Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay có nguy cơ làm cho tình hình khan hiếm lương thực thêm trầm trọng. Nguyên nhân đầu tiên là tại các nước phát triển, do thiếu tín dụng, nông dân không thể mua hạt giống, phân bón để nâng cao sản lượng. Việc đầu tư, mở rộng canh tác ở các nước nghèo cũng gặp khó khăn khi mà các nguồn tài trợ quốc tế cho nông nghiệp bị suy giảm. _ Diện tích đất nông nghiệp ngày một giảm, kéo theo sản lượng nông nghiệp giảm. Ví dụ như ở Trung Quốc đất sản xuất nông nghiệp đã giảm nhanh từ 130,04 triệu hécta năm 1996 xuống còn 121,72 triệu hécta năm 2008, do tác động của quá trình đô thị hóa nhanh và thiên tai. Hiện nay, diện tích đất trồng trọt ở Trung Quốc vào khoảng 0,092 ha/đầu người, chỉ bằng 40% mức trung bình của thế giới. Chưa đầy 4,7 triệu hécta được coi là đất dự trữ sản xuất nông nghiệp _ Năng suất trong lương thực không đồng đều trong các năm. Ví dụ, tại Nhật Bản, năng suất trồng lúa liên tục gia tăng trong nhiều thập niên, tuy nhiên từ 14 năm nay, chỉ số năng suất này đã bị chững lại. Trung Quốc và Hàn Quốc cũng đang tiến gần đến mức thu hoạch tối đa tương tự như tại Nhật Bản. Nhằm tăng diện tích canh tác, hiện nay một số các nước giàu USD như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… đang thực hiện chiến lược thuê ruộng đất ở các nước khác để sản xuất lúa ngoài lãnh thổ. Nhìn chung sản lượng lương thực thế giới trong những năm gần đây có xu hướng giảm. II. Tình hình xuất khẩu lương thực thế giới từ sau khủng hoảng 2007-2008 đến nay: 1. Tình hình chung: Cây lương thực là nguồn cung cấp chính về năng lượng và chất bột trong khẩu phần thức ăn cho toàn dân số trên thế giới. Đầu năm 2008, thế giới bàng hoàng trước cơn bão có tên là giá lương thực. Đã có ít nhất 37 nước trên thế giới phải đối mặt với tình trạng khủng hoảng lương thực1. Giá gạo tăng đột ngột đã khiến cho hàng triệu người ở châu Mỹ, châu Phi và cả ở châu Á – " vựa lúa của thế giới" lâm vào cảnh thiếu đói. Chính phủ các nước hầu như không thể tiếp tục trợ giá lương thực. Thời tiết bất ổn là một trong những yếu tố gây nên tình trạng này. Ngoài ra còn có sự biến 1 – năm 2008 – năm của những khửng hoảng (31-12-2008) động mạnh của kinh tế toàn cầu, bao gồm giá dầu tăng cao, dự trữ lương thực giảm và nhu cầu tiêu thụ ngày càng gia tăng ở các nước như Trung Quốc và Ấn Độ. Kể từ sau cuộc khủng hoảng đó, tức là năm 2009 đến nay, giá lương thực vẫn tiếp tục tăng cộng thêm với tình hình thời tiết vẫn tiếp diễn bất ổn đã khiến cho nhiều quốc gia có tâm lý lo sợ một cuộc khủng hoảng lương thực tiếp theo. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến tình hình xuất khẩu lương thực và làm giảm giá trị xuất khẩu lương thực của thế giới. 2. Nguyên nhân: - Trước hết, thiên tai, mất mùa xảy ra thường xuyên làm ảnh hưởng đến sản xuất lương thực của các quốc gia. Sản lượng giảm khiến cho xuất khẩu lương thực cũng không được đảm bảo. Trong những năm gần đây, tác động của biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt và nghiêm trọng, gắn liền với nó là những hiện tượng thiên tai bão lụt, hạn hán. Quy mô thiệt hại do những hiện tượng này gây ra mỗi lúc một trầm trọng, gây ra tình trạng thiếu nước và mất mùa thường xuyên. Biến đổi khí hậu đã làm giảm năng suất cũng như sản lượng lương thực. Chính vì nguồn cung thiếu hụt như vậy đã không thúc đẩy mạnh được xuất khẩu lương thực. - Thứ hai, các quốc gia đang sử dụng nông phẩm để sản xuất nhiên liệu sinh học thay thế xăng dầu. Nhiên liệu sinh học (biofuel) được biết đến với rất nhiều lợi thế: là một trong những biện pháp kìm hãm hiện tượng nóng lên toàn cầu; giúp các quốc gia chủ động, không bị lệ thuộc vào vấn đề nhập khẩu nhiên liệu, đặc biệt đối với những quốc gia không có nguồn dầu mỏ và than đá; kiềm chế sự gia tăng giá xăng dầu, ổn định tình hình năng lượng cho thế giới; tạo thêm công ăn việc làm cho người dân; và cũng không đòi hỏi phải có những thiết bị và công nghệ đắt tiền. Braxin là một trong những quốc gia đi đầu trong phong trào phát triển nhiên liệu sinh học của thế giới. Từ một nước phải nhập khẩu dầu mỏ hàng năm, đến nay Braxin đã hoàn tự chủ về nhiên liệu, đồng thời chứng tỏ được ưu thế tuyệt đối của nhiên liệu sinh học đối với các nguồn nhiên liệu được khai thác từ lòng đất. Nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích từ nhiên liệu sinh học, Mỹ, cộng đồng Châu Âu và nhiều nước khác trên thế giới cũng theo gương Braxin, gấp rút phát triển nền công nghiệp còn nhiều tiềm năng này. Tuy nhiên, việc khuyến khích phát triển nhiên liệu sinh học đã mang đến nguy cơ đối với vấn đề lương thực. Việc sử dụng đất để trồng cây nguyên liệu sản xuất nhiên liệu sinh học có thể ảnh hưởng đến nguồn cung cấp lương thực. Khi người nông dân thấy trồng cây nguyên liệu (như mía đường, cọ…) có lợi hơn trồng lúa, ngô, khoai, sắn, họ sẽ thôi cấy lúa, chuyển sang trồng mía, cọ để cung cấp cho các nhà máy và làm cho sản lượng lương thực giảm, việc xuất khẩu lương thực để phục vụ nhu cầu sống của con người cũng vì thế mà giảm theo. - Thứ ba, chính sách xuất khẩu lương thực của các nước xuất khẩu lương thực lớn. Trong khi sản lượng lương thực thế giới đang sụt giảm vì biến động của thời tiết, thì tình hình lương thực trên thế giới càng trở nên căng thẳng hơn khi một số nước xuất khẩu lương thực lớn hàng đầu lại đưa ra hạn chế xuất khẩu. Tháng 4-2008, Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo để ghìm giá lương thực trong nước, nhưng tiếp tục cho phép xuất khẩu khoảng 2 triệu tấn thông qua kênh ngoại giao tới một số nước nhất định2.Song đến năm 2009, Ấn Độ cho biết nước này sẽ không xuất khẩu gạo hay lúa mì thông qua các con đường ngoại giao nữa. Nguyên nhân là do hạn hán bất ngờ đã khiến mùa màng giảm mạnh ở các bang phía bắc, nơi được xem là những vựa lương thực của quốc gia hơn 1 tỉ dân này. Lệnh cấm xuất khẩu nhằm đảm bảo an ninh lương thực cho Ấn Độ. Năm ngoái 2010, Nga, một trong những nước xuất khẩu lúa mì lớn nhất thế giới, vừa ban hành lệnh cấm xuất khẩu ngũ cốc vì hạn hán kéo dài, các vụ cháy rừng và nhiệt độ tăng cao kỷ lục đang hoành hành phần lớn quốc gia này. Thủ tướng Vladimir Putin ban hành lệnh cấm trong khuôn khổ kế hoạch đẩy mạnh việc kiểm soát giá cả nội địa đối với các sản phẩm lúa mì và thực phẩm chăn nuôi. Ukraine cũng giảm lượng xuất khẩu. Bộ chính sách nông nghiệp Ucraina đã giảm 8% trong dự báo xuất khẩu ngũ cốc trong năm marketing 2010-2011 - còn 12,7 triệu tấn.3 Việt Nam – nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới – trong năm nay (2011) cũng sẽ giảm lượng xuất khẩu gạo do những khó khăn về tình hình sản xuất trong nước như: 1- Ruộng ít đi vì bị quy hoạch, 2- nước lũ không còn như xưa (sông Mê-Kong), lý do TQ ở thượng nguồn xây nhiều cái đập chà bá, lưu lượng nước bị chặn lại, 3- Khí hậu thay đổi, mưa gió thất thường. Hiệp hội Lương thực Việt Nam ước tính lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2011 sẽ giảm 750 ngàn tấn so với năm ngoái, xuống còn 6 triệu tấn 4. 2 - Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo qua kênh ngoại giao (27-07-2009) 3 - Chính phủ Ucraina áp hạn ngạch xuất khẩu ngũ cốc (30-11-2010) 4 - Việt Nam sẽ giảm lượng gạo xuất khẩu trong (13-01-2011) III.An ninh lương thực thế giới sau khủng hoảng lương thực 2007-2008 đến nay: 1. Cuộc khủng hoảng lương thực thế giới 2007-2008: a. Tổng quan: Một cơn bão hoàn hảo của khan hiếm lương thực, ấm nóng toàn cầu, giá dầu leo thang, bùng nổ dân số đẩy loài người vào một cơn khủng hoảng lớn nhất của thế kỷ 21 bằng cách làm tăng giá lương thực, gia tăng số người nghèo đói từ nông thôn tới thành phố. Hàng triệu người vốn đã rất dễ “tổn thương” trên thế giới lại phải đối mặt với thiếu đói vì bóng ma thiếu lương thực và giá cả leo thang. Theo các chuyên gia, đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng lương thực lan rộng từ các quốc gia phát triển đến những nước đang phát triển. Hơn 73 triệu người của 78 nước phụ thuộc vào lương thực cứu trợ của Chương trình Lương thực thế giới (WFP) phải chịu cảnh thiếu thốn khẩu phần trong năm 2008. Một quan chức WFP cho hay, khan hiếm lương thực là “cơn khủng hoảng lớn nhất che mờ toàn cầu”. b. Tác động của cuộc khủng hoảng: Trong khoảng một năm, giá các loại lương thực, trước hết là gạo, loại lương thực thiết yếu đối với hơn 50% dân số toàn cầu, trên thị trường thế giới đã liên tục leo lên những nấc thang mới, gây ra tâm lý hoang mang và những rối loạn xã hội sâu sắc ở nhiều nước, nhất là ở các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latin. Theo tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO), năm 2007, giá lúa mì đã tăng 130%, gạo tăng 74%, đậu tương tăng 87% và ngô tăng 53%, mức tăng giá mạnh nhất trong nhiều năm. Tuy nhiên không dừng ở đó, ngay từ đầu năm 2008, giá các mặt hàng này càng tăng mạnh. Giá gạo thời điểm này đã tăng gấp 3 lần và ở một vài nước giá còn tăng gấp 10 lần so với năm 2007. Giá gạo cứ mỗi ngày lại lập kỷ lục mới. Tính chung chỉ số giá ngũ cốc (gồm gạo, ngô, lúa mì..) đã tăng ít nhất 75% trong khoảng 1 năm trở lại. Chỉ số giá dầu ăn và mỡ cũng tăng tới mức tương tự. Theo AP, giá thực phẩm đã tăng 40% trên toàn cầu kể từ giữa 2007. Theo FAO, đã có 36 nước ở châu Phi, châu Á và Mỹ Latin đang phải đối mặt với tình trạng thiếu lương thực. Trong cuộc khủng hoảng lương thực này, những nước nghèo, đặc biệt là ở Châu Á, rất dễ bị tổn thương trước vấn đề tăng giá lương thực, và có nguy cơ bị khó khăn và thiệt hại nhiều nhất, vì thu nhập của họ rất thấp và ở nhiều nước, người dân phải chi phần lớn ngân sách ít ỏi của mình cho nhu cầu lương thực và thực phẩm. Chẳng hạn, chỉ cho lương thực chiếm tới 30% tổng mức chi tiêu ở Trung Quốc, 40% ở Việt Nam và 50% ở Ấn Độ. Ở Philipines và Bangladesh, tình trạng này còn tồi tệ hơn, do người dân phải dành tới 70% thu nhập của mình để mua lương thực. Hay theo một thống kê khác, chỉ trong vòng một năm, chi phí cho một bữa ăn của một gia đình ở châu Á và Châu Phi đã tăng 40%. Trong khi ở các nước phát triển, nhu cầu lương thực chỉ chiếm 10-20% chi tiêu của các hộ gia đình, thì ở các nước nghèo, người dân phải dành tới 90% thu nhập cho các bữa ăn đạm bạc của mình. Khác hẳn so với các cuộc khủng hoảng lương thực trước đây, chỉ xảy ra cục bộ và tác động đến một bộ phận nhỏ dân cư nghèo, cuộc khủng hoảng này đang tác động đến cả những người không thường xuyên bị nạn đói đe doạ. “Đối với tầng lớp trung lưu có nghĩa là phải giảm bớt chi phí chăm sóc y tế. Đối với người có thu nhập 2USD/ngày, nghĩa là phải giảm bớt thịt và cho con cái họ nghỉ học. Đối với những người thu nhập 1 USD/ngày, nghĩa là phải giảm bớt thịt và rau và chỉ ăn ngũ cốc. Và đối với những người chỉ có thu nhập 50 xu/ngày, thì có nghĩa rằng đây là 1 thảm hoạ khủng khiếp”, theo giám đốc của Tổ chức Chương trình lương thực Thế giới (WFP). Các thống kê cho thấy hiện nay khoảng trên 1 tỉ người sống với mức 1 USD/ngày và 1,5 tỉ người sống với 2USD/ngày. Theo tính toán của WFP, hiện có khoảng 77 triệu người trên thế giới đang đối mặt với nguy cơ thiếu ăn bởi giá lúa mỳ và gạo tăng cao. Một cuộc nghiên cứu của WB cho biết, khi thực phẩm tăng giá 1% thì số người không được đảm bảo về thực phẩm trên toàn thế giới lại tăng thêm 16 triệu người. Các chuyên gia đã nói tới những cuộc “chiến tranh bánh mì”. Trên thực tế, đã xảy ra bạo loạn và biểu tình vì khan hiếm lương thực ở Ai Cập, Haiti, Cameroon, Burkina Faso. Đặc biệt, tại Haiti, một đảo quốc ở Trung Mỹ, vì lương thực quá đắt đỏ, dân chúng đã nổi loạn suốt mấy ngày liền, khiến thượng viện phải bãi nhiệm Thủ tướng Jacques Edouard Alexix, vì bị cho là không có khả năng kiểm soát thị trường. Còn ở các quốc gia Trung Đông như Bahrain, Jordan và các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, công nhân đã phát động nhiều cuộc biểu tình phản đối tình trạng khan hiếm lương thực. Ở Marốc, hàng chục người bị bỏ tù vì bạo loạn, ở Yemen, từ đầu năm 2008 đã có hàng chục người bị giết trong những cuộc xung đột liên quan tới lương thực. Đầu tháng 4/2008, tại Bờ Biển Ngà, có 1 người chết, tại Senegal có 24 người bị bắt trong những cuộc bạo loạn do giá lương thực tăng. Pakistan và Indonesia đã bố trí hàng ngàn binh lính để hộ tống những đoàn xe trở gạo và bột mì để khỏi bị dân chúng đang tuyệt vọng trong tình trạng thiếu lương thực cướp bóc. Biểu tình đã bùng nổ ở Indonesia do khan hiếm đậu nành, còn ở HongKong đầu tháng 4/2008, quầy gạo trong các siêu thị bị vét sạch vì có tin đồn giá gạo sẽ tăng cao hơn nữa sau khi Hiệp hội các nhà hàng HôngKông nâng giá mỗi tô cơm từ 1 lên 2 HKD. Đại sứ đặc biệt của LHQ về quyền lương thực, Jean Ziegler, nhận định về cuộc k
Luận văn liên quan