Pháp luật thừa kế là vấn đề phức tạp thường xẩy ra các tranh chấp trong quá trình giải quyết đặc biệt là thừa kế theo di chúc. Trong đó hình thức di chúc chung của vợ chồng được các luật gia nhắc đến nhiều nhất. Xung quanh vấn đề này còn có nhiều tranh cãi liệu BLDS 2005 có nên tiếp tục thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ chồng để định đoạt tài sản chung của họ hay không.
Vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc chung vốn đã gây rất nhiều tranh luận giữa các chuyên gia pháp luật thừa kế, khi đóng góp cho dự thảo BLDS 2005. Tuy nhiên sau khi BLDS 2005 được ban hành, vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để, nên vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không trùng với thời điểm mở thừa kế.
Hệ quả là, khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc chung không thể yêu cầu chia di sản do người chết trước để lại, những người thuộc diện thừa kế bắt buộc của người vợ hay chồng đã chết trước không được yêu cầu chia thừa kế bắt buộc của người vợ hoặc chồng đã chết và nếu ngoài di chúc chung, một bên vợ, chồng đã chết trước còn để lại nhiều di chúc khác nhau thì vấn đề xác định hiệu lực của các di chúc sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Do tính cấp thiết của vấn đề nên tôi xin phép được chọn đề tài:" Thời điểm có hiệu lực của di chúc chung vợ chồng" làm bài tiểu luận cho mình qua đó nêu lên một số thực trạng chung và một số kiến nghị nhằm khắc phục điểm hạn chế này.
25 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2511 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thời điểm có hiệu lực của di chúc chung vợ chồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Pháp luật thừa kế là vấn đề phức tạp thường xẩy ra các tranh chấp trong quá trình giải quyết đặc biệt là thừa kế theo di chúc. Trong đó hình thức di chúc chung của vợ chồng được các luật gia nhắc đến nhiều nhất. Xung quanh vấn đề này còn có nhiều tranh cãi liệu BLDS 2005 có nên tiếp tục thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ chồng để định đoạt tài sản chung của họ hay không.
Vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc chung vốn đã gây rất nhiều tranh luận giữa các chuyên gia pháp luật thừa kế, khi đóng góp cho dự thảo BLDS 2005. Tuy nhiên sau khi BLDS 2005 được ban hành, vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để, nên vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không trùng với thời điểm mở thừa kế.
Hệ quả là, khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc chung không thể yêu cầu chia di sản do người chết trước để lại, những người thuộc diện thừa kế bắt buộc của người vợ hay chồng đã chết trước không được yêu cầu chia thừa kế bắt buộc của người vợ hoặc chồng đã chết và nếu ngoài di chúc chung, một bên vợ, chồng đã chết trước còn để lại nhiều di chúc khác nhau thì vấn đề xác định hiệu lực của các di chúc sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Do tính cấp thiết của vấn đề nên tôi xin phép được chọn đề tài:" Thời điểm có hiệu lực của di chúc chung vợ chồng" làm bài tiểu luận cho mình qua đó nêu lên một số thực trạng chung và một số kiến nghị nhằm khắc phục điểm hạn chế này.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của đề tài này là trên cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm làm rõ hạn chế của vấn đề thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng và đề xuất các kiến nghị giải quyết.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung làm rõ thêm những bất cập trong quy định của BLDS 2005 về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung vợ chồng. Thời gian phân tích từ khi BLDS 2005 có hiệu lực cho đến nay.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề hiệu lực của di chúc chung vợ chồng đặc biệt tập trung khai thác phần thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài chú ý vận dụng tổng hợp các nguyên tắc, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp xã hội khoa học.
4. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng tuy gây nhiều tranh cãi nhưng số lượng công trình nghiên cứu còn hạn chế, chưa có quy mô lớn.
Một số công trình nghiên cứu đó là: "Một số bất cập trong việc thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ - chồng". Tác giả, Thạc sĩ Lê Minh Hùng, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Kết cấu của đề tài
Bài tiểu luận được chia như sau:
A- Mở đầu.
1. Lí do chọn đề tài.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
4. Tình hình nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài.
B- Nội dung.
Chưong 1: Khái quát chung về thừa kế theo di chúc.
1.1. Khái niệm.
1.1.1. Di chúc và thừa kế theo di chúc.
1.1.2. Di chúc chung vợ chồng.
1.2. Các điều kiện có hiệu lực của di chúc.
1.2.1. Người lập di chúc phải có năng lực chủ thể.
1.2.2. Người lập di chúc tự nguyện.
1.2.3. Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
1.2.4. Hình thức của di chúc không trái quy định của pháp luật.
1.2.5. Hiệu lực pháp luật của di chúc, di chúc chung vợ chồng.
Chương 2: Thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng.
2.1. Vấn đề di chúc chung vợ chồng hiện nay.
2.2. Kiến nghị
C- Kết luận.
Danh mục các tài liệu tham khảo.
B. Nội dung
Chương 1: Khái quát chung về thừa kế theo di chúc
1.1. Khái niệm
1.1.1. Di chúc và thừa kế theo di chúc.
Thừa kế với tư cách là một quan hệ pháp luật dân sự trong đó các chủ thể có những quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong quan hệ này, người có tài sản trước khi chết có quyền định đoạt tài sản của mình cho người khác thể hịên bằng việc viết di chúc. Vậy di chúc là gì?
Theo điều 646 BLDS 2005 thì:
"Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết".
Củ thể hóa Điều 646 ta thấy di chúc cần có các yếu tố cấu thành như sau:
Đó là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải của bất cứ chủ thể nào khác. Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương nghĩa là do ý chí của một chủ thể nhất định, trong trường hợp này người để lại di sản tức là người chủ sở hữu hợp pháp khối tài sản của mình có quyền định đoạt khối tài sản đó cho bất kỳ tổ chức cá nhân nào trong trường hợp pháp luật cho phép.
Mục đích của việc lập di chúc là chuyển giao tài sản của mình cho người khác.
Qua quá trình lao động, làm viêc, người lập di chúc đã tích lũy được một khối tài sản nhất định và sau khi chết họ muốn chuyển khối tài sản của mình cho những người được hưởng di sản trong nội dung của di chúc. Tài sản ở đây bao gồm những gì?
Theo điều 634 BLDS 2005:
" Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác".
Và Điều 163 BLDS 2005 Tài sản là:
" Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản"
Đồng thời với việc hưởng di sản của người chết thì người hưởng di sản cũng phải thực hiện các nghĩa vụ mà khi còn sống người để lại di sản chưa kịp thực hiện hoặc thực hiện còn dở dang trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.
Di chúc chỉ có hiệu lực sau khi người viết di chúc chết. Theo ý chí của người lập di chúc và quy định của pháp luật di chúc sẽ có hiệu lực sau khi người lập di chúc chết bởi lúc còn sống thì khối tài sản của người lập di chúc đang thuộc sở hữu của người đó do vậy người để lại di sản có đầy đủ ba quyền năng: Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Khi lập di chúc nhưng sau một thời gian thấy nội dung của di chúc chưa hợp lí, người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ di chúc đã lập để thay thế bằng một di chúc khác.
Mặt khác ta cũng thấy rằng nếu di chúc có hiệu lực trước thời điểm người lập di chúc chết thì quyền lợi của họ sẽ bị xâm phạm. Từ một người còn sống, có tài sản bỗng dưng trở thành "trắng tay" do đó không phù hợp và pháp luật chỉ thừa nhận hiệu lực của di chúc khi người để lại di sản chết.
Như đã nói ở trên, di chúc là hành vi pháp lí đơn phương của người lập di chúc, vì thế phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và điều hiện có hiệu lực của di chúc nói riêng. Vì vậy một người muốn định đoạt tài sản của mình bằng di chúc cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc.
1.1.2. Di chúc chung vợ chồng.
Trong thực tế di chúc thường chỉ do một cá nhân thiết lập để chuyển giao tài sản của mình sau khi chết cho người khác nhưng cũng có trường hợp di chúc được lập không phải là sự thể hiện ý chí không phải của một cá nhân mà đây là sự thể hiện ý chí chung của cả hai người ( hai vợ chồng ). Điều này được quy định củ thể tại điều 163 BLDS 2005. Di chúc chung của vợ chồng là việc " vợ, chồng có thể lập di chúc chung để lập tài sản chung ". Như vậy di sản mà hai vợ chồng muốn để lại cho người khác chỉ có thể là tài sản chung của hai vợ chồng. Đây là khối tài sản mà trong thời kì hôn nhân mà hai người tạo dựng được hoặc khối tài sản riêng nhưng đã nhập vào khối tài sản chung. cả hai vợ chồng đều là sở hữu chung hợp nhất đối với những tài sản này nên họ đòng thời có quyền định đoạt là hợp lí. Ngoài ra tài sản riêng của mỗi người sẽ do người đó tự đó tự định đoạt hoặc sẽ được chia theo quy định của pháp luật.
1.2. Các điều kiện có hiệu lực của di chúc.
Để một di chúc có hiệu lực nó phải đáp ứng các điều kiện nhất định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và các điều kiện để được coi là di chúc hợp pháp.
1.2.1. Người lập di chúc phải có năng lực chủ thể
Theo Điều 674 BLDS 2005 thì: Người lập di chúc
"1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ đươc hanh vi của mình.
2. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộp đong ý"
Pháp luật nước ta công nhận người từ đủ 18 tuổit trở lên là người thành niên. Vì vậy không phân biệt nam, nữ, tôn giáo, thành phần... Người từ đủ 18 tuổi đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho người khác.
Tuy nhiên ngưòi từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi do năng lực hành vi chưa đầy đủ (có năng lực hành vi một phần) có thể lập di chúc nhưng với điều kiện "lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý". Sự đồng ý ở đây là sự đòng ý cho họ lập di chúc còn về mặt nôi dung di chúc, họ được toàn quyền quyết định.
1.2.2 Người lập di chúc tự nguyện
Người lập di chúc phải tự nguyện khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Pháp luật bảp vệ quyền tự nguyện của quyền lập di chúc bằng việc quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 652 và điểm d, khoản 1, Điều 643 BLDS 2005
" 1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ câc điều kiện sau đây:
a ,người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép"
"1.
d , Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bội sản trái với ý chỉ cửa người để lại di sản".
Sự tự nguyện của người lập di chúc là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của họ. Sự thống nhất trên chính là sự thống nhất giữa mong muốn chủ quan - mong muốn bên trong của người lập di chúc với hình thức thể hiện ra bên ngoài sự mong muốn đó. Vì vậy, việc phá vỡ sự thống nhất giữa mong muốn bên trong và việc thể hiện ra biên ngoài làm mất đi tính tự nguyện của người lập di chúc.Sự thống nhất này có thể bị phá vỡ trong những trường hợp người lập di chúc bị cưỡng ép, đe dọa hoặc di chúc do họ lập trên cơ sở bị lừa dối.
Cưỡng ép có thể là sự cưỡng ép về thể chất (đánh đập, giam giữ...) hoặc về tinh thần ( như dọa làm một việc có thể làm mất danh dự, uy tín của người lập di chúc...). Người lập di chúc có thể bị lừa dối bằng những thủ đoạn như: Làm tài liệu giả để cho nguòi cản tin rằng một người đã chết hoặc đã mất tích nên không lập di chúc để lại di sản cho người đó mà để lại di sản cho người làm tài liệu giả.
1.2.3. Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đưc xã hội.
Theo quy định tại điêmt b, khoản 1, Điều 652 thì di chúc được coi là hợp pháp khi "b, nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội"
Nội dung di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc định đoạt tài sản của mình cho những người thừa kế. Người lập di chúc chỉ định người thừa kế, giao nghĩa vụ cho ngưòi thừa kế, phân định di sản thừa kế, đưa ra các điều kiện để chia di sản thừa kế. Tuy nhiên, ý chí của người lập di chúc phải phù hợp với ý chí của nhà nước, đạo đức xã hội, pháp luật cấm các trường hợp sử dụng di sản vào mục đích bất hợp pháp, chuyển giao tài sản cho các tổ chức bất hợp pháp. Vi phạm các điều đó di chúc sẽ bị vô hiệu.
1.2.4. Hình thức của di chúc không trí quy định của pháp luật
Cũng theo quy định tại điêmt d, khoản 1, Điều 652:
Di chúc hợp pháp khi: "Hình thức di chúc không tái quy định của pháp luật"
Hình thức của di chúc là phương thức biểu hiện ý chí của người lập di chúc (nội dung di chúc): là căn cứ pháp lí làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc. Vì vậy, di chúc phải được lập dưới một hình thức nhất định. Pháp luật nước ta quy định:
Điều 649: Hình thức của di chúc
" Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Người dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình".
Vì thời gian của bài viết không cho phép nên tôi chỉ xin giới thiệu sơ lược về hai hình thức này.
Hình thức văn bản: Là loại di chúc được thể hiện dưới dạng chữ viết ( viết tay, đánh máy, in ) có chứng nhận hoặc không có chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hình thức miệng: Do điều kiện hoàn cảnh bắt buộc cho nên toàn bộ ý chí của người lập di chúc thể hiện bằng lời nói.
Trong hai hình thức thể hiện ý chí của người để lại di chúc này còn phải đáp ứng một số điều kiện dp pháp luật quy định thì di chúc mới được coi là hợp pháp.
1.2.5. Hiệu lực pháp luật của di chúc, di chúc chung vợ chồng.
Hiệu lực pháp luật của di chúc là di chúc được thực hiện trên thực tế theo đúng nội dung của di chúc.
Theo Điều 667 BLDS 2005: Hiệu lực pháp luật của di chúc:
"1. Di chúc có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm mở thừa kế.
2. Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:
a , Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
b , Cơ quan,tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.
Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật.
3. Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để alị cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
4. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.
5. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật".
Điều 667 đã quy định rất rõ ràng thời điểm có hiệu lực pháp luật của di chúc và những trường hợp di chúc không có hiệu lực pháp luật. Vì thế tôi xin đi vào phân tích hiệu lực pháp luật của di chúc chung vợ chồng.
Điều 668 quy đinh:
" Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ chồng cùng chết "
Trong trường hợp vợ chồng cùng lập di chúc chung mà có một người chết trước thì phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung chưa có hiệu lực pháp luật nhằm đam bảo cho vợ hoặc chồng còn sống tiếp tục khai thác tài sản chung có hiệu quả, để người còn sống vẫn có thể duy trì cuộc sống bình thường của mình. Chỉ sau khi cả hai vợ chồng đều đã chết tức chủ sở hữu của tài sản không còn nữa thì lúc đó di chúc chung mới có hiệu lực pháp luật. Đây là việc thể hiện ý chí chung thống nhất giữa hai vợ chồng nên pháp luật mới có những quy định như trên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Chương 2: Thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng
2.1. Vấn đề di chúc chung của vợ chồng
BLDS 2005 có những điểm khác biệt so với BLDS 1995. Tại điều 668 BLDS 2005 quy định: "Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết"
Theo quy định này đã dơn giản hóa việc thực thi di chúc chung tức là chỉ chia thừa kế một lần so với BLDS 1995.
Trong điều 668 pháp luật quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thơì điểm bên sau cùng chết, trong khi quyền thừa kế phát sinh từ thời điểm mở thừa kế. Đây chính là nguyên nhân của những mâu thuẩn xảy ra.
Việc chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hau chồng chết trước sẽ gây khó khăn cho các bên liên quan và cho cả các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời cũng gây khó khăn cho việc xác định phạm vi nhung người thừa kế và tư cách của người được thừa hưởng di sản.
Một cái nhân có thể gồm nhiều khối tài sản khác nhau như tài sản riêng của cái nhân và phần tài sản chung của vợ hay chông. Nếu xác định di chúc chung chỉ có hiệu lực vào thời điểm "bên sau cùng chết", thì có thể phải tiến hành chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay người chồng chết trước. Việc chia thừa kế lần đầu được tiến hành với phần di sản là tài sản riêng của người chết trước hoặc những tài sản chung khác không định đoạt trong di chúc chung, dựa vào thời điểm mở thừa kế của người đó. Các phần chia thừa kế sau được áp dụng với phần di sản định đoạt trong di chúc chung vợ, chồng, khi di chúc chung có hiệu lực ( vào thời điểm bên sau cùng chết )
Quyền và nghĩa vụ của người thừa kế đối với di sản do người chết để lại phát sinh từ thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước mà có di sản định đoạt bằng di chúc chung, vừa có tài sản riêng không lập di chúc hoặc có những tài sản chung không được đưa vào di chúc chung, hoặc một phần tài sản liên quan đến di chúc chung bị vô hiệu thì có thể dẫn đến là khối di sản của người đó được chia thừa kế làm nhiều lần.
Điều này dẫn tới hệ quả là người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước sẽ phải kiện xin chia thừa kế nhiều lần, Tòa án sẽ phải ít nhất hai lần thụ lí và giải quyết hai lần tranh chấp khác nhau trên cùng khối tài sản của người chết trước. Từ đó không chỉ gây khó khăn cho người thừa kế của người chết trước làm phức tạp thêm tính chất của vụ việc, mà còn gây khó khăn cho các cơ quan chức năng giải quyết tranh chấp thừa kế (trong việc xác định di sản người chết, xác định người thừa kế của người chết trước và việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ nếu người chết có để lại món nợ đối với người thứ ba).
Nếu những người thừa kế (của vợ chồng đẫ chết hoặc những người được chỉ định trong di chúc chung) chết sau thời điểm mở thừa kế nhưng chết trước khi di chúc có hiệu lực thì họ có còn được hưởng thừa kế nữa không, có chia thừa kế thế vị hay thừa kế chuyển tiếp không; hoặc những người trong diện thừa kế hợp pháp (của người vợ hoặc chồng còn sống) nhưng tư cách thừa kế của họ được xác định trước khi di chúc chung có hiệu lực (như vợ chồng tái hôn hoặc con riêng với người vợ, chồng sau) thì họ có được thừa kế bắt buộc với phần di sản đã được định đoạt trong di chúc chung hay không. Ngoài ra việc xác định tư cách người thừa kế cũng gặp khó khăn ngay cả đối với người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc chung, nếu họ chết sau người vợ hoặc chồng qua cố, nhưng lại chết trước khi di chúc chung có hiệu lực... Đây là những vấn đề phức tạp nhưng quy định hiiện hành không thể giải quyết được. Bởi vậy, nếu quy định thời điểm có hiệu lực của di chúc như hiện nay thì cần phải tính đến quyền lợi của những người được di chúc chung chỉ định hưởng thừa kế.
Quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung như luật hiện hành sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọmg tới quyền và lợi ích hợp pháp của những người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước.
Quyền thừa kế đối với di sản của người chết trước phát sinh từ thời điểm mở thừa kế, nhưng đến khi di chúc chung chưa phát sinh hiệu lực, những người thừa kế của người chết trước sẽ không thể yêu cầu phân chia di sản của người chết đã được định đoạt trong di chúc chung và phần di sản liên quan tới phần nội dung di chúc chung bị vô hiệu nếu có. Hoặc nếu trông trường hợp người vợ hoặc người chồng còn sống lâu hơn so với tuổi thọ của những người thừa kế hợp pháp của người chết trước ( như cha, mẹ của người chết trước, người thừa kế là con riêng chưa thành niên đang đau yếu cần tiền chữa bệnh... ) làm những người này mất quyền hưởng di sản.
Đó là chưa kể các trường hợp di chúc chung có thể bị vô hiệu toàn bộ hay một phần nhưng mãi đến hàng chục năm sau mới phát hiện thì trong nhiều trường hợp, quyền khởi kiện đòi chia thừa kế của những người thừa kế hợp pháp của người vợ hay chồng chết trước đó đã bị bỏ lỡ mà không còn cơ hội để khắc phục nếu người thừa kế đó đã chết. Điều này đã xâm phạm tới quyền thừa kế hợp pháp - một quyền Hiến định cơ bản của công dân.
Sự mâu thuẫn giưũa quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng với các quy định khác có liên quan trong hệ thống pháp luật.
Theo các quy định liên quan, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
Người thừ kế chỉ có thể từ chối hưởng di sản thừa kế trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Nếu không từ chối đúng thủ tục và trong thời hạn luật định thì được coi là đã nhận di sản (Điều 642 BLDS 2005). Theo đó, giữa thời điểm phát sinh các quyền và nghĩa v