Đề tài Thực hiện pháp luật và nghĩa vụ của Công ty Xuân Hòa

Hiện nay nhu mức sống của người dân trong xã hội đã phát triển tương đối cao, chính vậy nhu cầu về vật chất và tinh thần của họ cũng theo đó mà phát triển theo. Ngành sản xuất và kinh doanh các mặt hàng nội thât cũng không năm ngoài mục đích phục vụ nhu cầu này của người tiêu dùng trong xã hội. Thông qua quá trình nghiên cứu và thực tập tại Công ty Xuân Hoà, một Công ty xản xuất và kinh doanh nhiều mặt hàng nhưng chủ yếu là mặt hàng nội thất giúp cho tôi hiểu rõ hơn về nhu cầu của xã hội đối với mặt hàng này. Đồng thời đây cũng là dịp tôi khải nghiệm những kiến thức mà mình đã tích luỹ được trong suất thời gian ngồi trên Giảng Đường đại học. Trong suất quá trình thực tập và nghiên cứu tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Xuân Hoà, tôi đã được sự giúp đỡ rất tận tình của toàn thể CBCNV của Công ty đặc biệt là những CBCNV phòng Kinh doanh nơi tôi trực tiếp thực tập. Hơn nữa với sự hướng dẫn tận tình của Thầy Vũ Văn Ngọc và Cô Lê Thị Thanh Thuỷ đã giúp tôi hoàn thành đề tài thực tập tổng hợp của mình. Thông qua bài viết này tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới toàn thể Công ty và Thầy Vũ Văn Ngọc, Cô Lê Thị Thanh Thuỷ. Bản Báo Cáo thực tập này được chia làm các phần chính sau: 1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY XUÂN HOÀ 2. KHÁI QUÁT VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÔNG TY 3. NHŨNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG CỦA CÔNG TY 4. VẤN ĐỀ KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN CÁC LOẠI HỢP ĐỒNG THỰC TẾ TẠI CÔNG TY 5. CÁC TRANH CHẤP PHÁT SINH TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP. Rất mong được sự góp ý chỉ bảo của thầy cô.

docx31 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2025 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực hiện pháp luật và nghĩa vụ của Công ty Xuân Hòa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo thực tập tổng hợp MỞ ĐẦU Hiện nay nhu mức sống của người dân trong xã hội đã phát triển tương đối cao, chính vậy nhu cầu về vật chất và tinh thần của họ cũng theo đó mà phát triển theo. Ngành sản xuất và kinh doanh các mặt hàng nội thât cũng không năm ngoài mục đích phục vụ nhu cầu này của người tiêu dùng trong xã hội. Thông qua quá trình nghiên cứu và thực tập tại Công ty Xuân Hoà, một Công ty xản xuất và kinh doanh nhiều mặt hàng nhưng chủ yếu là mặt hàng nội thất giúp cho tôi hiểu rõ hơn về nhu cầu của xã hội đối với mặt hàng này. Đồng thời đây cũng là dịp tôi khải nghiệm những kiến thức mà mình đã tích luỹ được trong suất thời gian ngồi trên Giảng Đường đại học. Trong suất quá trình thực tập và nghiên cứu tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Xuân Hoà, tôi đã được sự giúp đỡ rất tận tình của toàn thể CBCNV của Công ty đặc biệt là những CBCNV phòng Kinh doanh nơi tôi trực tiếp thực tập. Hơn nữa với sự hướng dẫn tận tình của Thầy Vũ Văn Ngọc và Cô Lê Thị Thanh Thuỷ đã giúp tôi hoàn thành đề tài thực tập tổng hợp của mình. Thông qua bài viết này tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới toàn thể Công ty và Thầy Vũ Văn Ngọc, Cô Lê Thị Thanh Thuỷ. Bản Báo Cáo thực tập này được chia làm các phần chính sau: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY XUÂN HOÀ KHÁI QUÁT VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÔNG TY NHŨNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG CỦA CÔNG TY VẤN ĐỀ KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN CÁC LOẠI HỢP ĐỒNG THỰC TẾ TẠI CÔNG TY CÁC TRANH CHẤP PHÁT SINH TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP. Rất mong được sự góp ý chỉ bảo của thầy cô. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY XUÂN HOÀ. Địa vị pháp lý và chức năng sản xuất kinh doanh của công ty. 1.1.1. Giới thiệu chung về công ty Xuân Hoà Tên Công ty viết bằng tiến việt: CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH VIÊN XUÂN HOÀ Tên giao dịch băng tiếng việt: CÔNG TY XUÂN HOÀ Tên giao dịch quốc tế: XUAN HOA COMPANY Tên viết tắt: XUHA Co trụ sở chính: Phường Xuân Hoà -Thị xã Phúc Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc. Sồ điện thoại: 0211863244 Fax : 0211863019 Email: xuanhoa@hn.vnn.vn Webside: www.xuanhoa.com Giấy chưng nhân đăng ký kinh doanh số: 109380 Ngành nghề kinh doanh: + Sản xuất, kinh doanh hàng trang thiết bị nội thất và trang thiết bị văn phòng, rắp ráp xe đạp xe máy, ống thép và phụ tùng xe đạp, xe máy, ô tô phịc vụ cho nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu; Liên doanh liên kết hợp tác đầu tư với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để mở rông sản xuất kinh doanh của công ty, được nhập khẩu nguyên, vật liệu, máy móc phụ tùng thiết bị phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của công ty và thị trường. + Làm đại lý, mở cửa hàng tiêu thụ và giới thiệu sản phẩm của công ty và sản phẩm liên doanh liên kết; Dịch vụ cho thuê: bến bãi đỗ xe, văn phòng làm việc, nhà ở, siêu thị, kinh doanh bất động sản; Kinh doanh các ngành nghề khác căn cứ vào năng lực của Công ty nhu cầu thị trường và được Pháp luật cho phép. Vốn điều lệ: 35.000.000.000,0 đồng (Ba mươi lăm tỷ đồng VN). Chủ sở hữu : UỶ BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI. Người đại diện pháp lý của Công ty: Chức danh: Chủ tịch Công ty kiêm Tổng giám đốc Họ và tên : Trần Quốc Lập Nam Sinh ngày : 14/7/1954 Dân tộc : Kinh Quốc tịch: Việt Nam Chứng minh nhân dân số: 012227176 Ngày cấp: 27/4/1999 Nơi cấp: Công an Thành Phố Hà Nội Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 15 - Đường 2/3 - Phường Láng Hạ - Quận Ba Đình – Thành phố Hà Nội Tên địa chỉ chi nhánh: Chi nhánh Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Xuân Hoà tại TP Hồ Chí Minh. Trụ sở : Số 558 - Đường cộng hoà - Phường 13 – Quận Tân Bình TP Hồ Chí Minh. Chi nhánh Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Xuân Hoà tại TP Hà Nội. Trụ sở : Số 7 Phố Yên Thế - Phường Điện Biên - Quận Ba Đình – TP Hà Nội. Tên địa chỉ đơn vị trực thuộc: Cơ sở sản xuất Đường Đông Lạnh - Thị Trấn Cầu Diễn - Huyện Từ Liêm – Thành Phố Hà Nội. 1.1.2 Những khởi đầu xây dựng Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại Miền Bắc, mà đỉnh cao là “Điện Biên Phủ trên không”, Chính phủ Mỹ buộc phải kí kết hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản thì nhân dân Miền Bắc phải đương đầu với rất nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh để lại. Vào thời điểm này Đảng và Nhà nước chủ trương khuyến khích sản xuất các mặt hàng phục vụ dân sinh, trong đó có việc sản xuất một nhà máy sản xuất xe đạp để phục vụ cho nhu cầu nhân dân. Nhà máy được lựa chọn đặt địa điểm trên vùng huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc (nay thuộc thị trấn Xuân Hoà huyện Mê Linh tỉnh Vỉnh Phúc) cách Hà Nội 42 Km, có công xuất thiết kế lắp ráp hoàn chỉnh 200.000 xe đạp/năm và các phụ tùng xe đạp như xích, vành, nan hoa, ghi đông phục vụ tiêu dùng. Công trình do nước Cộng hoà Pháp chuyển giao công nghệ, thiết bị. Giữa năm 1974, Bộ cơ khí luyện kim là chủ đầu tư đã điều động các lực lượng gồm đoàn thi công cơ giới 32, công trường xây lắp máy số 6 thuộc công ty xây lăp công trình cơ khí tiến hành khởi công xây đựng. Cuối năm 1977 phần xây dựng nhà xưởng về cơ bản đã xong, chuyển sang giai đoạn lắp đặy thiết bị. Ban chuận bị sản xuất Nhà máy xe đạp Xuân Hoà được thành lập. Ban này có nhiệm vụ tiếp nhận công trình sau khi xây lắp xong, tổ chức và bố trí cán bộ theo chuyên gia tiếp thu công nghệ và chuẩn bị mọi điều cần thiết cho xí nghiệp ra đời. Từ cuối năm 1977 đến năm 1979 đã tiếp nhận nhiều đợt cán bộ, công nhân viên về làm nòng cốt cho xí nghiệp. Tháng 5-1978, chị bộ ban chuẩn bị sản xuất được thành lập với 46 đảng viên. Tổ chức công đoàn, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cũng được thành lập. Tháng 6-1979, Thủ tướng Chính phủ có quyết định chuyển công trình xe đạp Xuân Hoà từ Bộ cơ khí luyện kim sang cho UBND thành phố Hà Nội quản lý. Việc chuyển giao giữa lúc công trình chưa hoàn thành trọn vẹn và đang thời kỳ chuyên gia hướng dẫn công nghệ gây khó khăn, ách tắc nghiêm trọng cho việc thực hiên hợp đồng hướng dẫn công nghệ của chuyên gia Pháp. Đầu năm 1980 có 3 giây chuyền sản xuất chạy thử cho ra sản phẩm là: xích, ổ giữa, nan hoa. Tháng 3-1980, UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định thành lập Xí nghiệp xe đạp Xuân Hoà và bổ nhiệm các đồng chí Nguyễn Mạnh Hiển làm Giám đốc, đồng chí Nguyễn Văn Tịnh, Văn Huy Quân làm phó Giám đốc. Sau khi ra đời các điều kiện về tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất của một doanh nghiệp quốc doanh được xúc tiến khẩn trương. Quý I năm 1980 đã cho ra đời các phân xưởng trực thuộc: Phòng Tổ chức lao động, Phòng Tài vụ, Phòng Kỹ thuật, Phòng Kế hoạch, Ban hành chính đời sống, Ban bảo vệ. Bốn dây chuyền vành, sơn, mạ và cân vành do những khó khăn về chuyển giao tổ chức, về điện nước và hợp đồng chuyển giao công nghệ với Pháp bị chậm trễ nên cuối năm 1980 dây chuyền vẫn chưa ổn định. Sau những nỗ lực tiếp nhận những cán bộ công nhân viên về, nhưng hầu hết đều mới ra trường, kinh nghiệm công tác còn non yếu, lãnh đạo xí nghiệp thực hiện nhiều biện pháp: cử nhiều đoàn CNV đi kiến tập ở Nhà máy Gang thép Thái Nguyên, ở Bi Xích Líp Đông Anh, ở Xe đạp Thống Nhất, mở nhiều lớp ngiệp vụ quản lý, hướng dẫn kỹ thuật cho công nhân các dây chuyền. Đến cuối năm 1980 về cơ bản Xí nghiệp xe đạp đã hình thành về tổ chức, nhân sự và quản lý. Chỉ sau thời gian chuẩn bị chưa đầy một năm, đầu năm 1981 Xí ngiệp đã có thể đi vào sản xuất theo kế hoạch nhà nước. Ngày 30-12-1980 trước sự chứng kiến của đại diện các cơ quan Nhà nước và Thành phố Hà Nội, Xí nghiệp khai trương. Đây là một thời kỳ vô cùng khó khăn về đời sống vật chất cũng như tinh thần. Công trình Xe đạp Xuân Hoà được xây dựng đã thức dậy một vùng đất hoang vu khô cằn, nhưng cũng chính sự hoang vu khô cắn đó mà tổ chức hạ tầng cơ sở và tổ chức dịch vụ còn sơ khai, cộng với chế độ tem phiếu thời bao cấp làm cho đời sống của CBCNV Xí nghiệp găp muôn vàn khó khăn thiếu thốn. Đời sống tinh thần cung cũng buồn tẻ không kém, tối không có điện, không phim ảnh không văn nghệ…Chấp nhận thực tế khó khăn đó nhưng không chịu chùn bước, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Ban Giám đốc đã phối hợp với Công đoàn, Đoàn thanh niên kiên trì tuyên truyền giáo dục vân động CBCNV tinh thần vượt khó, từng bước thực hiênj nhiều biện pháp tích cực. Các gia đình có phong trào gia tăng tự túc rau xanh, trồng khoai sắn nuôi lợn gà để gia tăng thu nhập. Phong trào đóng gạch xỉ, tự sửa sang nhà ở, công trình phụ. Tuy rất khó khăn ban lãnh đạo xí nghiệp cho chạy máy phát điện nhỏ cấp điện sinh hoạt vào giờ cao điểm. Mua sắm máy thu hình ở khu tập thểvà tổ chức một hệ thống loa công cộng bắc vào từng dãy nhà tập thể. Nhà ăn tập thể buổi đầu vô cùng kho khăn, nhưng ngày càng được củng cố, bộ phận phục vụ tích cực liên hệ các nguồn cung cấp các nguồn lương thực, thực phẩm có chât lượng hơn. Nhà trẻ bắt đầu xây dựng với số cháu ban đầu vài chục cháu. Đoàn thanh niên phát động phong trào thể dục thể thao, lôi cuốn đông đảo CBCNV tham gia. Không có tiền mua dụng cụ thể thao Đoàn đã tổ chức đi trồng rừng thuê cho Lâm trường gây quỹ. Dòng chữ “ Không có gì quý hơn độc lập tự do” bằng đá xếp trên đồi Thằn Lằn cách xa hàng chục Km vẫn thấy rõ do Đoàn thanh niên tự thiết kế thi công là tượng trưng cho ý chí và tinh thần con người ở đây. Nếu xét trong toàn bộ quá trình đi lên của công ty Xuân Hoà thì đây là thời kỳ khó khăn gian khổ nhấy của công ty. 1.2 Khái quát về quá trình hoạt động của công ty 1.2.1 Giai đoạn sản xuất theo kế hoạch Giai đoạn 1981-1985: Năm 1981 năm đầu tiên sẩn xuất theo kế hoạch nhà nước giao, Xí nghiệp gặp rất nhiều khó khăn lúng túng. Trước hết là đội ngũ đã yếu lại thiếu, tổng số lao động đầu năm là 350 người, trong đó kỹ sư chưa đến 20, trung cấp trên 30 người, công nhân kỹ thuật chiếm 60% nhưng hầu hết mới ra trường bậc 2 bậc 3, mà phải tiếp nhận một công trình kỹ thuật hiện đại vào loại nhất Việt Nam và trong khu vực lúc bấy giờ trong lĩnh vực xe đạp. Lúc này mới có 4 dây chuyền đã sản xuất thử: xích, ổ giữa, nan hoa và vành còn 3 dây chuyền nữa chưa được hướng dẫn đầy đủ và chạy chưa ổn định thì chuyên gia về nước.Với tinh thần khắc phục khó khăn đoàn thanh niên đề xướng phong trào thi đua chào mừng 50 năm thành lập đoàn 26-3-1931—26-3-1981 đưa sản lượng xích đạt 26.000 sợi /tháng một kỷ lục chưa từng có. Tháng 3/1981 UBND Thành phố Hà Nội chuyển xí nghiệp từ sở công nghiệp Hà Nội vào Liên hiệp Xe đạp Hà Nội. Tháng 4/1981 tiếp nhận Xí nghiệp kéo ống thép Kim Anh thành một phân xưởng chuyên sản xuất ống thép các loại phục vụ cho sản xuất xe đạp. Năm 1982 nhiều khó khăn mới phát sinh: các loại vật tư chính và phụ thiếu thép làm xích và ổ giữa hết, hợp đồng mới chưa về kịp. dụng cụ khuôn cối có có một số loại dơ dão hỏng hóc vật tư phục vụ cũng cạn kiêt. Qua cân điều kiện sản xuất Nhà nước chỉ giao kế hoạch bằng 50% kế hoạch năm 1981. Năm 1983 sản xuất có nhiều thuận lợi hơn do kết quả hoạt động của hai năm về trước, đăc biệt là các giải pháp khoa học kỹ thuật đem lại. Mặt khác các loại vật tư chính: Thép làm ổ giữa đã về, khí thế thi đua sản xuất có nhiều khởi sắc. Xí nghiệp lần đầu tiên áp dụng hình thức treo tiền thưởng cho từng dây chuyền sản xuất, định mức lao động và áp dụng chế độ lương theo sản phẩm có chế độ khuyến khích luỹ tiến nên không khí thi đua diễn ra rất sôi nổi. Công tác quản lý kỹ thuật chú ý chương trình bảo dưỡng định kỳ hướng dẫn kiểm tra quy trình công nghệ và quy phạm an toàn, công tác kế hoạch thực hiện điều độ, công tác thống kê đã tổ chức mạng lưới ghi chép đến từng phân xưởng từng ngày. Kế hoạch sản xuất năm 1983 đạt 108,8% trong đó sản lượng ổ giữa đạt 75.000 chiếc. Năm 1984 được giao thêm nhiệm vụ sản xuất xe đạp, các nhiệm vụ khác cũng được giao tăng hơn. Đời sống văn hoá tinh thần có nhiều tiến bộ, năm đầu tiên tổ chức cho CBCNV đi nghỉ mát mùa hè và thăm cố đô Huế. Kết nghĩa vói đoàn 235 mỗi tháng chiếu phim một tối. Mua sắm nhiều dụng cụ thể thao tổ chức thi đấu bóng chuyền, bóng đá. Đặc biệt là phong trào văn nghệ quần chúng diễn ra sôi nổi. Công tác quản lý cũng đạt thành tựu: xích được cấp dấu chất lượng cấp 1, xe đạp được công nhận là xe chất lượng cao. Tác phong công nghiệp trong làm việc nề nếp quản lý được chấn chỉnh. Năm 1985 là năm thứ năm thành lập Xí nghiệp đã bớt phần kho khăn, song trong sản suất kinh doanh còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết: đó là tình trạng mất cân đối vật tư; thiếu dụng cụ phụ tùng thay thế phụcvụ sản suất; đồng tiền bị mất giá nghiêm trọng do lạm phát làm ảnh hưởng đến dời sống của CBCNV. Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng năm 1985 Xí nghiệp hoàn thành vượt mức trước kế hoạch 20 ngày. Năm năm (1980-19895) là giai đoạn đầu tiên hình thành Xí nghiệp về mọi mặt. Về tổ chức sản xuất đã phat triển dần theo hướng chuyên môn hoá. Nếu năm 1981 có 4 phân xưởng, 7 phòng ban thì năm 1985 có 7 phân xưởng, 11 phòng ban. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo điều hành được bồi dưỡng thử thách từ trong thực tiễn. Kết quả sản xuất kinh doanh và đời sống 1981-1985 như sau: Chỉ tiêu ĐV 1981 1982 1983 1984 1985 Giá trị TSL Tr.đ 18,547 8,897 13,131 20,000 34,414 Sản phẩm Xích sợi 131.18 38.69 125.513 191.000 270.131 Vành mạ đôi 5.318 9.732 25.521 46.000 42.400 Nan hoa 100c 9.596 3.744 1.500 1.546 4.495 Ổ giữa cái 67.798 74.900 43.375 Ống thép 1000m 631,6 274,1 275,1 232,5 341,9 Xe đạp cái 600 5.502 Lao động bq người 414 411 457 484 492 Thu nhập bq đồng 299 350 416 509 355 Chiến sĩ TĐ người 5 6 11 15 16 Tổ LĐXHCN tổ 3 5 6 Giai đoạn 1986-1990. Năm 1986 là một mốc quan trọng trọng lịch sử phát triển của đất nước. Nghị quyết Hội nghị TW 8 khoá VI chỉ rõ “ Năm 1986 phải là năm cải cách nhằm xoá bỏ lề lối quản lý hành chính bao cấp chuyển sang hoạch toán kinh doanh có lãi…” Sau đó Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật đã phan tích sâu sắc những sai lầm, khuyết điểm của Đảng và Nhà nước trong qúa trình quản lý kinh tế-xã hội; đề ra phương hướng đổi mới tư duy trước hết là tư duy kinh tế và cơ chế quản lý, để tạo ra một bước chuyển biến căn bản của đất nước Thấm nhuần quan điểm của TW, Xí nghiệp đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị sâu rông trong quần chúng nhằm đánh giá thực trạng tình hình và những ưu khuyết điểm. Từ đó lãnh đạo xí nghiệp đã từng bước thực hiện đề án cải tiến quản lý. Trong công tác kế hoạch Xí nghiệp đã giao cho các phân xưởng căn cứ vào năng lực thiết bị xây dựng và đăng ký kế hoạch. Phân cấp kỹ thuật đưa một số kĩ sư, trung cấp kỹ thuật vào làm việc tại phân xưởng trực tiếp giải quyết tại chỗ những khó khăn vướng mắc. Với những cố gắng vượt bậc triển khai nhiều biện pháp đồng bộ tích cực mà kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong hai năm 1987-1988 đều hoàn thành vượt mức. Trong đó ản lượng xích 1987 đạt 300.000 sợi, năm 1988 được 21.000 xe đạp hoàn chỉnh một kỷ lục chưa từng có. Bước sang năm 1989, kiên t rì tư tưởng đổi mới của Đảng và Nhà nước và đề cao vai trò tự chủ của cấc đơn vị trong sản xuất kinh doanh. Với những trang thiềt bị công nghệ có sẵn ban lãnh đạo Xí nghiệp đã mạnh dạn đi vào hướng sản xuất mặt hàng nội thất. Quán triệt tư tưởng của đồng chí Nguyễn Văn Linh “Tự cứu lấy mình trươc khi trời cứu…” một phong trào tìm kiếm sản phẩm mới dấy lên rộng khắp. Chỉ trong quý 3 năm 1989 Xí nghệp đã cho ra đời hàng chục mẫu mã bàn, nghế, giá… Đặc biệt là các loại nghế gấp kiểu Liên Xô, Thái Lan được khách hàng rất ưa chuộng. Việc chế tạo thành công các loại sản phẩm mới năm 1989 là một sự kiện lịch sử quan trọng của Xí nghiệp, tạo ra một hướng phát triển hoàn toàn mới. Trên đà thắng lợi của năm 1989 năm 1990 kết quả sản xuất kinh doanh đạt 140% khẳng dịnh hướng đi đúng của Xí nghiệp và triển vọng phát triển trong những năm tiếp theo. Kết quả sản xuất, kinh doanh và đời sống giai đoạn1985-1990. Chỉ tiêu ĐV 1986 1987 1988 1989 1990 Giá trị TSL Tr.đ 40,318 59,98 71,40 39,92 51,67 Sản phẩm Bàn ghế các loại cái 36.300 35.400 27.438 31.993 Xích sợi 115.045 300.000 293.000 67.653 1.222 Vành mạ đôi 32.662 40.492 80.900 63.156 75.291 Nan hoa 100c 2.000 320 1.592 Ổ giữa cái 65907 30.000 70.600 Ống thép 1000m 258 500 576 380 549,7 Xe đạp cái 12.720 16.507 21.000 12.469 15.690 Lao động bq người 553 577 619 620 636 Thu nhập bq đồng 1.225 5.983 54.669 60.000 135.378 Chiến sĩ TĐ người 26 36 44 38 51 Tổ LĐXHCN tổ 9 15 15 15 21 Giai đoạn tiếp tục đổi mới. Giai đoạn 1990-1995. Sau những năm đổi mới thực hiên dường lối đổi mới nhất là trong hai năm 2989-1990, Xí nghiệp xe đạp Xuân Hoà giành được những thắng lợi to lớn. Với bước đi thử nghiệm mạnh dạn chuuyển sang sản xuất mặt hạng nội thất, đã tạo đà cho xí nghiệp nhanh chóng tiếp cận với cơ chế thị trường, ổn định đời sống và phát triển sản xuất. Bên cạnh đó xí nghiệp cũng đứng trước những thách thức không nhỏ. Mặt trái của cơ chế thị trường phát sinh nhiều tiêu cực: Tình trạng sản xuất kinh doanh trốn lậu thuế, làm hàng giả ngày càng nhiều, nạn nhập lậu hàng xe đạp tràn ngập trên thị trường, mặt khác vừa thoát khỏi cơ chế cũ nên còn chịu nhiều lề lối, tác phong làm việc cũ. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn những nhân tố chủ quan, khách quan, thuận lợi, khó khăn của nghiệp, tại đại hội CNVC tháng 3-1991 đã xác định phương hướng nhiệm vụ chủ yếu của xí nghiệp là: Quyết tâm đẩy mạnh đổi mới, tích cực chuyển sang ngành hàng nội thất văn phòng nhưng vẫn duy trì mặt hàng truyền thống, bảo đảm việc làm và đời sồng cho CBCNV. Mở rộng quan hệ liên kết, kí kết hợp đồng kinh tế sản xuất, gia công khuôn cối sữa chữa thiết bị với các cơ quan trường học… để khai thác vật tư tiêu thụ sản phẩm. Nhờ đó Xí nghiệp đã khai thác được tiềm năng trí tuệ và trình độ kỹ thuật của đơn vị bạn. Bước đầu đặt một số đại lý tiêu thụ hàng hoá ở các cửa hàng trong Liên hiệp, cửa hàng Bách hóa tổng hợp Tràng Tiền, Cửa Nam, Cẩm Phả, Lạng Sơn. Năm 1992 tham gia triển lãm hàng thật hàng giả tại hội vhợ Giảng Võ được khách hàng tìn nhiệm cao. Trong xu thế phát triển chung của đất nước, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, ngày 7/10/1993 UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 5614- QĐ/UB, chuyển Xí nghiệp xe đạp Xuân Hoà thành công ty Xuân Hoà. Tên giao dịch quốc tế là XUANHOACOMPANY. Việc chuyển Xí nghịêp thành công ty đã mở bước phát triển mới cho đơn vị. Nếu trước đây nhiệm vụ chủ yếu của Xí nghiệp là sản xuất thì nay Công ty được mở rộng tối đa quyền hạn về kinh doanh, thương mại, dịch vụ, kết liên doanh với trong nước và nước ngoài, xuất nhập khẩu trực tiếp…Công ty có thể phát huy tối đa quyền tự chủ phù hợp với cơ chế mở. Đây là sự phát triển về chất mà nhờ đó đã đưa Công ty phát triển với tốc độ nhanh hơn, toàn diện hơn. Trong hai năm 1983-1984 Công ty đã tích cực đầu tư công nghệ mới hiện đại hoá dây chuyền sản xuất vừa đáp ứng nhu cầu của thị trường vừa tạo khoảng cách với các đối thủ cạnh tranh về công nghệ. Năm 1995 đầu tư đây chuyền sơn bột tĩnh điện của Thụy Sỹ là loại công nghệ hiện đại nhất thế giới lúc bấy giờ làm cho công suất tăng lên gấp 4 lần so với dây chuyền sơn nước. Cũng trong năm 1995 đầu tư dây chuyền kéo ống thép của Đai Loan nâng công suất lên 2,7 lần và có tỷ lệ phế phẩm nhỏ hơn. Cuối năm 1993 mở thêm chi nhánh ở Hà Nội( số 4 Thanh Nhàn ). Đầu năm 1994 mở thêm chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 1993-1995 mở 46 đại lý trên 31 tỉnh thành trong cả ba vùng miền trên cả nước. đòng thời cử nhiều đoàn cán bộ chủ chốt đi tham khảo nhiều thị thị trường thành phố Hồ Chí Minh ,các tỉnh miền nam và các nước Nhật Bản, Trung Quốc, ASEAN,…Nhờ vậy công ty đã có hàng trăm sáng kiến đổi mới kỹ thuật. Do nhưng thành tích nổi bật đó năm 1995 Công ty đã được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng Nhất. Kết quả sản xuất kinh doanh và đời sống CBCNV năm 1991-1995. Chỉ tiêu ĐV 1991 1992 1993 1994 1995 Giá trị TSL Tr.đ 5.145 5.891 9.280 37.606 52.700 Sản phẩm bàn ghếcác loại cái 73.668 117.260 219.783 348.650 500.244 Xích sợi 147.802 238.09 256.202 122.600 8.840 Vành mạ đôi 74.36 68.999 56.171 68.998 41.188 Ổ giữa cái 28.282 12.908 3.462 Ống thép 1000m 596,4 479,9 1.500 2.047 1.557 Xe đạp cái 9.080 6.260 5.116 5.969 3.670 Lao động bq người 615 603 6
Luận văn liên quan