Đề tài Thực tiễn áp dụng về hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hàng thương mại

Bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm đối với hoạt ngân hàng,được thực hiện từ rất sớm ở nhiều nước.Bảo hiểm tiền gửi hiện nay có 1 vị trí,vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng,đây là 1 trong các biện pháp bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng và hệ thống ngân hàngThực tế ở các nước cho thấy,khi có bảo hiểm tiền gửi ra đời hoạt động có hiệu qur,thì số lượng các ngân hàng bị tuyên bố phá sản đã giảm đi rõ rệt.Bởi vì,nhờ có bảo hiểm tiền gửi đã ngặn chặn sự đổ vỡ mang tính dây chuyền trong hệ thống ngân hàng,góp phần duy trì sự phát triển ổn định,an toàn cho các tổ chức tín dụng.Nhờ có bảo hiểm tiền gửi mà quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền được đảm bảo và từ đó các tổ chức tín dụng đã tạo dựng được niềm tin cho người gửi tiền,nhiều người dân có tiền đã tích cực gửi tiền vào các tổ chức tín dụng,qua đó các tổ chức tín dụng huy động nhiều vốn nhàn rỗi trong xã hội để cho vay và làm dịch vụ ngân hàng khác,hiệu quả hoạt động của các tổ chúc tín dụng đã tăng rõ rệt,nền kinh tế đất nước phát triển,xã hội ổn định

doc15 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2459 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực tiễn áp dụng về hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hàng thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHỤ LỤC Trang Phần mở đầu………………………………………………………………… 1 Phần nội dung I. Pháp luật chung về Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam ( BHTG)…………... 2 1. Cơ quan thực hiện BHTG………………………………………………2 2. Về đối tượng tham gia BHTG…………………………………………. 3 3. Về người được bảo hiểm và khoản tiền gửi được bảo hiểm…………..3 4. Về mức phí bảo hiểm tiền gửi…………………………………………..4 5. Về giới hạn bảo hiểm tiền gửi…………………………………………..6 II.Thực tiễn áp dụng BHTG tại các ngân hàng thương mại…………….. 6 III. Đánh giá, nhận xét: 1. Về những mặt đạt được…………………………………………………8 2. Những mặt hạn chế……………………………………………………. .10 3. Những thách thức………………………………………………………..11 4. Hướng giải quyết………………………………………………………..12 Phần kết luận………………………………………………………………. 15 PHẦN MỞ ĐẦU Bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm đối với hoạt ngân hàng,được thực hiện từ rất sớm ở nhiều nước.Bảo hiểm tiền gửi hiện nay có 1 vị trí,vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng,đây là 1 trong các biện pháp bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng và hệ thống ngân hàngThực tế ở các nước cho thấy,khi có bảo hiểm tiền gửi ra đời hoạt động có hiệu qur,thì số lượng các ngân hàng bị tuyên bố phá sản đã giảm đi rõ rệt.Bởi vì,nhờ có bảo hiểm tiền gửi đã ngặn chặn sự đổ vỡ mang tính dây chuyền trong hệ thống ngân hàng,góp phần duy trì sự phát triển ổn định,an toàn cho các tổ chức tín dụng.Nhờ có bảo hiểm tiền gửi mà quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền được đảm bảo và từ đó các tổ chức tín dụng đã tạo dựng được niềm tin cho người gửi tiền,nhiều người dân có tiền đã tích cực gửi tiền vào các tổ chức tín dụng,qua đó các tổ chức tín dụng huy động nhiều vốn nhàn rỗi trong xã hội để cho vay và làm dịch vụ ngân hàng khác,hiệu quả hoạt động của các tổ chúc tín dụng đã tăng rõ rệt,nền kinh tế đất nước phát triển,xã hội ổn định Sau đây ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về thực tiễn áp dụng về hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hàng thương mại. PHẦN NỘI DUNG Pháp luật chung về bảo hiểm tiền gửi ở VN : Sự phát triển của nền kinh tế VN đã đặt ra yêu cầu phải có những quy định chặt chẽ và kịp thời đối với hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng. Khi Quốc hội thông qua 2 đạo luật quan trọng trong lĩnh vực ngân hàng : Luật ngân hàng (1997) và Luật các tổ chức tín dụng thì vấn đề BHTG được nghiên cứu nghiêm túc hơn. Sau một thời gian nghiên cứu, mô hình bảo hiểm tiền gửi đã được hình thành theo Nghị định số 89/NĐ – CP/1999. Đến ngày 09/11/1999 Thủ tướng chính phủ ra quyết định số 218/1999/QĐ - TTg thành lập tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Nghị định số 89/NĐ - CP ra đời cùng với NĐ số 109/2005/NĐ –CP sửa đổi bổ sung một số điều của NĐ 89/1999/NĐ – CP, thông tư 03/206/ TT –NHNN hướng dẫn một số nội dung tại NĐ số 89/1999/NĐ- CP và NĐ số 19/2005/NĐ –CP đã tạo ra môi trường pháp lý góp phần đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng. Về cơ quan thực hiện bảo hiểm tiền gửi: Bảo hiểm tiền gửi VN là tổ chức tài chính nhà nước thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, là tổ chức có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ do Nhà nước cấp là 1000 tỉ đồng Việt Nam và được bổ sung từ nguồn thu phí hàng năm. bảo hiểm tiền gửi Việt Nam độc lập về tài chính, được tự chủ trong quá trình hoạt động. Là tổ chức do Nhà nước thành lập và cấp vốn vì mục đích bảo đảm an toàn cho tổ chức tín dụng qua đó tạo niềm tin cho người gửi tiền, giúp cho các tổ chức tín dụng thực hiện việc huy động vốn nhàn rổi trong xã hội, trên cơ sở đó góp phần bình ổn thị trường, ổn định kinh tế đất nước. Chính vì vậy, bảo hiểm tiền gửi VN hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, được miễn các loại thuế theo quy định của pháp luật. bảo hiểm tiền gửi VN được mở tài khoản tại Ngân hàng nhà nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật; có bảng cân đối tài khoản và được lập các quỹ phù hợp theo quy định của pháp luật. Bảo hiểm tiền gửi VN là tổ chức thuộc sở hữu nhà nước. Đây là mô hình phù hợp với tình hình Việt Nam hiện nay. Trong điều kiện của hệ thống Ngân hàng, tổ chức tín dụng chưa thực sự lớn mạnh và còn nhiều rủi ro; vai trò của hiệp hội Ngân hàng chưa thực sự đủ mạnh để đứng ra liên kế với các Ngân hàng trong cơ chế tự bảo vệ ; lòng tin của người dân vào hệ thống tín dụng ngân hàng chưa cao thì nhà nước phải đứng ra thành lập tổ chức bảo hiểm tiền gửi của nhà nước để chi trả cho người dân là việc làm hợp lý. Về đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi: Điều NĐ 89/ 1999/ NĐ – CP, Điều 1 NĐ 109/2005 / NĐ – CP quy định: “Các tổ chức tín dụng và các tổ chức không phải tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của luật các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi của cá nhân, tổ chức phải tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc”. Quy định này cho thấy phạm vi đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi là tương đối rộng. Mọi tổ chức tín dụng không phân biệt tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tín dụng trong nước hay tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài cũng như các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi đều trở thành đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi. Trên thực tế, đa số ngững quốc gia có hệ thống bảo hiểm tiền gửi đều quy định các tổ chức tín dụng và các tổ chức có huy động tiền gửi tự nguyện của cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc Vì thế, có thể thấy quy định của pháp luật VN đã tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế, thể hiện sự bình đẳng trong nghĩa vụ, đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền ở những tổ chức có nhận tiền gửi. Là nghĩa vụ bắt buộc nên về mặt nguyên tắc không một tổ chức nào có nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân mà không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Về người được bảo hiểm và khoản tiền gửi được bảo hiểm: Nếu trước đây “Tiền gửi được bảo hiểm là đồng Việt Nam của các cá nhân gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi” ( Điều 3 NĐ số 89/1999/NĐ – CP). Thì bây giờ “ Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của người gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trừ các trường hợp sau đây: Tiền gửi của người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền biểu quyết của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó Tiền gửi của người gửi tiền là thành viên của hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc ( Giám đốc), phó tổng giám đốc ( phó giám đốc) của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó Tiền gửi dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền Tiền mua các giấy tờ có giá, trừ một số giấy tờ có giá theo hướng dẫn của ngân hàng Nhà nước VN ( Khoản 2 Điều 1 NĐ 109/2005/ NĐ – CP) Theo đó diện người được bảo hiểm cũng rộng hơn: Người được bảo hiểm không chỉ riêng cá nhân nữa mà còn bao gôm cả hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Hiện nay theo Điều 20 khoản 9 Luật các tổ chức tín dụng quy định: “Số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không thời hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác”. Trong khi đó, loại tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm, tiền gửi không chỉ giới hạn ở loại tiền gửi được khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng mà còn bao gồm cả tiền gửi tại các tổ chức không phải tổ chức tín dụng được phép nhận tiền gửi. Như vậy, khái niệm tiền gửi được hiểu theo nghĩa rộng hơn rất nhiều. Vì thế, để tránh những cách hiểu và áp dụng không thống nhất, về mặt lập pháp cũng cần quy định rõ ràng loại tiền gửi của tổ chức, cá nhân nào của tổ chức cá nhân được bảo hiểm. Về mức phí bảo hiểm tiền gửi: Phí bảo hiểm tiền gửi là khoản tiền mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp cho tổ chức tổ chức nhận bảo hiểm tiền gửi để thực hiện bảo hiểm cho số tiền gửi của khách hàng khi có sự kiện bảo hiểm. Phí bảo hiểm tiền gửi là nguồn tài chính quan trọngđể đảm bảo cho tổ chức bảo hiểm thực hiện hoạt động của mình. Tỉ lệ phí bảo hiểm có thể được áp dụng theo 2 loại là đồng hạng hoặc không đồng hạng. Thông thường khi xây dựng và áp dụng chính sách bảo hiểm tiền gửi căn cứ vào mức độ phát triển của hệ thống ngân hàng, sự minh bạch của thị trường tài chính tiền tệ cũng như mức độ rủi ro của nó. Theo quy định của pháp luật hiện hành, hàng năm tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải nộp cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi VN một khoản phí bằng 0,15% tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền được bảo hiểmtại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Số phí bảo hiểm được tính và thu 4 lần 1 năm. Mức phí 0,15% được áp dụng đồng bộ cho tất cả các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, việc áp dụng cho thấy, phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng chỉ phù hợp khi hoạt động ngân hàng còn chưa thật sự phát triển, khoảng cách về rủi ro trong kinh doanh của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là không lớn. Trong điều kiện hội nhập kinh tế, hệ thống ngân hàng phát triển mạnh, sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng và sự phát triển của hoạt động ngân hàng cho thấy rõ sự khác biệt về năng lực tài chính và mức độ rủi ro của các tổ chức này. Do vây mức phí bảo hiểm tiền gửi phải thể hiện rõ sự chênh lệch dựa trên mức độ rủi ro trong hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, khuyến khích các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tăng cường năng lực quản trị rủi ro để được hưởng mức phí bảo hiểm tiền gửi thấp ; tăng cường sự ổn định an toàn tài chính cũng như tránh được những rủi ro đạo đức. Nghị định 109/ 2005/ NĐ – CP đã bước đầu tạo cơ sở pháp lý để áp dụng mức phí không đồng hạng bằng việc quy định khả năng điều chỉnh mức phí bảo hiểm tiền gửi theo loại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi hoặc trên cơ sở đánh giá, xếp loại của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên hiện nay vẫn áp dụng mức thuế đồng bộ là 0,15%. Bởi việc xác định mức phí khác nhau cần có thời gian và những nghiên cứu khoa học cũng như sự phân biệt về cơ sở hạ tầng để phân loại mức độ rủi ro của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi Về giới hạn bảo hiểm tiền gửi: Theo Nghị định số 89/1999/NĐ- CP giới hạn số tiền gửi tối đa là 30 triệu đồng VN được trả cho tất cả các khoản tiền gửi bao gồm cả gốc lẫn lãi của một cá nhân tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Đối với số tiền gửi vượt quá 30 triệu đồng VN được tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả sẽ được trả cho người gửi tiền trong quá trình tham gia bảo hiểm tiền gửi phù hợp với quy định của Luật phá sản doanh nghiệp. Ở VN số người gửi tiền có số chi dưới 30 triệu đồng chiếm tỉ lệ lớn (khoảng 80%) do đó mức tiền được bảo hiểm có thể làm yên lòng số đông người gửi tiền. Đồng thời đảm bảo không gây ra sự đổ vỡ hàng loạt các tổ chức tín dụng khi một tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng phá sản bởi họ là dối tượng tiền gửi chiếm khá cao. Những quy định pháp luật trên mang lại ý nghĩa to lớn trong công cuộc lành mạnh hóa lĩnh vực tín dụng ngân hang. Nhờ đó VN tạo ra được khung pháp lý đồng bộ để điều chỉnh nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi II. Thực tiễn áp dụng bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hàng thương mại: Hệ thống Ngân hàng thương mại hiện nay rất rộng bao gồm: Ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng tại Việt Nam. Đặc điểm chung của các ngân hàng này là các ngân hàng cơ sở có sự chênh lệch khá lớn về quy mô vốn và phạm vi hoạt động. Vì vậy, khả năng cạnh tranh cũng khác nhau. Đặc biệt sự chênh lệch về thị phần làm cho các ngân hàng nhỏ khó duy trì hoạt động. Thêm nữa các ngân hàng có vốn thấp, nợ xấu cao, kiến thức về nghiệp vụ còn kém. Từ đó làm cho các ngân hàng dễ bị tổn thương khi có biến động xấu xảy ra. Trước thực tế như vậy, đã thúc đẩy hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam ra đời, mang lại nhiều hiệu quả quan trọng. Đặc biệt từ quý II/2003, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức bảo hiểm tiền gửi quốc tế. Từ đó Việt Nam có điều kiện học hỏi kinh nghiệm về hoạt động cũng như cách thức tổ chức từ các nước trên thế giới đặc biệt là Mỹ. Thực tiễn hoạt động cho thấy, khi mức sông của người dân được nâng cao, hạn mức 30 triệu đồng không còn phù hợp nữa. Vì thế nhiều ngân hàng cũng như một số giới kinh doanh đề xuất nâng hạn mức lên 50 triệu đồng nhằm đảm bảo quyền lợi khách hàng và chia sẻ bớt gánh nặng rủi ro nếu có đối với ngân hàng. Tuy nhiên bộ tài chính lo ngại 50 triệu là quá cao, có thể phát sinh tư tưởng ỷ lại, các ngân hàng sẽ không áp dụng biện pháp bảo đảm an toàn đúng mức. Hơn nữa theo bộ tài chính, mức chi trả hiện nay (30 triệu) gấp 3 lần thu nhập bình quân đầu người Việt Nam năm 2004. Trong khi đó nguồn thu phí bảo hiểm tiền gửi còn hạn chế, chưa đủ năng lực tài chính để chi trả ngay khi các ngân hàng thương mại cổ phần mất khả năng chi trả. Mặt khác ở Việt Nam hiện nay, lượng khách hàng nhỏ chiếm 75-80% nhưng số tiền họ gửi chỉ bằng 10-15% tổng lượng tiền gửi vào ngân hàng. Vì thế, nên tập chung cho khách hàng nhỏ vừa đảm bảo mục đích vừa đảm bảo quyền lợi của số đông khách hàng. Tuy nhiên do số tiền được bảo hiểm không quá lớn nên nhiều ngân hàng chủ quan trong vấn đề này. Tại một số ngân hàng thương mại cụ thể, vấn đề bảo hiểm tiền gửi đang còn là một vấn đề nhạy cảm, được các ngân hàng hết sức quan tâm đến. - Ngân hàng ACB là một trong những ngân hàng có thực lực mạnh, kinh doanh có hiệu quả. Trong những năm qua, ACB luôn tuân thủ các quy định vì an toàn vốn và khả năng chi trả cho khách hàng. Toàn bộ tiền gửi của khách hàng đều được ACB mua bảo hiểm theo quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. ACB là một ngân hàng có uy tín và đáng tin cậy của nhiều khách hàng. Thời gian trước ( cuối năm 2003) xảy ra sự kiện tin đồn về Tổng giám đốc ACB bỏ trốn gây nên một tâm lý hoang mang, hốt hoảng ở nhiều khách hàng có quan hệ giao dịch với ACB. Dẫn đến hậu quả rất đông khách hàng ồ ạt kéo đến rút tiền gửi. Tuy nhiên đó chỉ là tin đồn. Lượng người rút tiền chỉ giảm xuống khi “nạn nhân” chính tin đồn cùng thống đốc Ngân hàng trung ương xuất hiện với lời hứa bảo toàn tài sản cho khách hàng. Theo báo cáo tài chính của ACB, tổng tài sản hiện có của ngân hàng lên tới 11.000 tỉ đồng. Dư nợ cho vay là 5.364 tỉ đồng. Lợi nhuận thuế đạt 148 tỉ đồng. ACB luôn đảm bảo chi trả đúng hạn mọi nhu cầu rút tiền. Tại một số ngân hàng cổ phần thương mại như HABUBANK, TECHCOMBANK, SAICOMBANK… đều là những ngân hàng hoạt động với mục tiêu phục vụ tốt nhất các yêu cầu của khách hàng, nhằm đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi một cách có hiệ quả nhất. Tại đây tiền gửi đều được bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Đặc biệt ở Habubank không những có nhiều hình thức gửi linh hoạt, thủ tục nhanh chóng thuận lợi mà còn có dịch vụ phục vụ gửi tiền, rút tiền tại nhà nếu quý khách có nhu cầu. Từ đó thu hút nhiều khách hàng, số tiền đựơc hưởng bảo hiểm tăng lên. Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng chịu sự giám sát chặt chẽ của bảo hiểm tiền gửi VN. Không những thế giữa các ngân hàng có những mối quan hệ thân thiện, nhằm giúp đỡ nhau khi một ngân hàng gặp khó khăn mà điển hình là vụ tin đồn ở ngân hnàg ACB 2003. III. Đánh giá, nhận xét: 1. Về những mặt đạt được: BHTG VN ra đời la cơ quan nhà nước chuyên trách lập ra theo luật các tổ chức tín dụng để thể hiện việc tạo lập và củng cố niềm tin công chúng vào ngân hàng. Là cơ quan kiểm tra đảm bảo sự an toàn của hệ thống tài chính, thiết lập an toàn cho các hoạt động ngân hàng và sự bình ổn thị trường. bảo hiểm tiền gửi VN đã mở rộng mạng lưới hoạt động ra khắp cả nước. Thực hiện việc cấp giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi, việc chi trả và giám sát quá trình thanh lý tài sản, kiểm tra giám sát các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng. Thành tựu rất cơ bản trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi là bước đầu đã có khuôn khổ pháp lý cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi công khai hoá chính sách công bảo hiểm tiền gửi, minh bạch hoá ngân sách nhà nước trong xử lý rủi ro. Đặc biệt quan điểm thực hiện bảo hiểm tiền gửi bắt buộc có tác dụng tốt trong việc nâng cao tính an toàn của công cụ đầu tư bằng tiền gửi vào ngân hàng, có lợi ích thiết thực cho người gửi tiền và cho cả hệ thống ngân hàng. Hơn 10 năm thực thi chính sách BHTG, Việt Nam đã thiết lập quan hệ BHTG với hơn một nghìn tổ chức nhận tiền gửi trong đó phần lớn là các ngân hàng thương mại và ngân hàng thương mại cổ phần. Mặt khác qua việc quy định đối tượng tiền gửi không phân biệt tổ chức tín dụng trong nước hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại VN, không phân biệt người cư trú hay không cư trú. Điều này thể hiện quyết tâm của nhà nước trong việc đưa ngành ngân hàng Việt Nam hội nhập vào các chuẩn mực tài chính quốc tế. Điều này tạo điều kiện cho các Ngân hàng trong nước nói chung, trong đó ngân hàng thương mại huy động vốn tốt hơn. bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ra đời cùng với hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi giúp cho các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có biện pháp phòng ngừa, khắc phục kịp thời những rủi ro có khả năng xảy ra. Ngân hàng thương mại là một tổ chức nhận tiền gửi chịu sự giám sát của bảo hiểm tiền gửi VN, thực hiện việc nhận tiền gửi và phôí hợp với bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền kịp thời. Điều này không chỉ bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, tạo lập được niềm tin của người dân, còn góp phần ổn định chính trị trật tự xã hội và ngăn ngừa ảnh hưởng rủi ro, đổ vỡ dây truyền trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Sau 2 năm ra nhập WTO, các ngân hàng thương mại trong nước tranh thủ khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh trên “sân nhà”: có mạng lưới rộng lớn, có khách hàng truyền thống, hiểu biết về khách hàng cũng như điều kiện kinh doanh tại VIệt Nam, kinh nghiệm nghiệp vụ tích luỹ trong nhiều năm qua, đầu tư xây dựng hệ thống ngân hàng cốt lõi cho phép quản trị dữ liệu một cách tập chung tại Hội sở chính, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh, cho ra đời nhiều sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng tăng tiện ích cho khách hàng. Dich vụ tiền gửi được đa dạng hoá, cho phép người gửi có nhiều lựa chọn cho đồng vốn nhàn rỗi của mình, đặc biệt đã có sự bùng nổ trong thanh toán thẻ ,quy mô vốn của các ngân hàng thương mại tăng đáng kể. Các ngân hàng Việt Nam có điều kiện hợp tác với các ngân hàng nước ngoài nhằm nhận được sự học hỏi và chuyển giao công nghệ, học hỏi kinh nghiệm của các nước, nâng cao sức cạnh tranh nội địa cho ngân hàng và tín dụng trong thời gian tới. Sau 2 năm ra nhập WTO, có thể thấy rằng cơ hội đem lại cho ngành bảo hiểm tiền gửi rất nhiều, không chỉ góp phần tăng thu phí bảo hiểm và đáp ứng nhu cầu tham gia bảo hiểm tiền gửi của mọi tầng lớp dân cư, mà còn tạo môi trường cạnh tranh, thúc đẩy các ngân hàng thương mại phát triển. Đồng thời cải thiện môi trường đầu tư, thu hút các nguồn vốn vào thị trường, thúc đẩy việc hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo hành lang pháp lý đồng bộ ổn định thị trường phát triển. 2. Những mặt hạn chế: Về cơ bản, Việt Nam đã có một khung pháp lý tương đối hoàn thiện về. bảo hiểm tiền gửi Tuy nhiên cơ sở vững chắc nhất là Luật bảo hiểm tiền gửi – là văn bản luật chuyên nghành, rất cần thiết -lại chưa có. Mặc dù pháp luật đã quy định khá đầy đủ nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều quy định chưa cụ thể hoặc đã quy định nhưng nay không còn phù hợp nữa. Ví dụ như việc quy định chưa rõ ràng về loại tiền gửi nào của tổ chức, cá nhân được bảo hiểm hay là việc áp dụng phí bảo hiểm đồng hạng chẳng hạn. Quy định đó không thê hiện rõ sự chênh lệch trên mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Theo quy định hiện nay thi 88% nguồn thu phi bảo hiểm tiền gửi trong 3 năm đầu của BHTG sẽ được tính vào quỹ dự phòng nghiệp vụ, tỉ lệ này sẽ được điều chỉnh theo xu hướng tăng trong những năm sau đó. Như vậy hoàn toàn không có một chỉ tiêu về số dư pháp định của quỹ bảo hiểm tiền gửi, không có quy định khống chế độ lớn của quỹ dự phòng nghiệp vụ. Do đó đề nghị khống chế độ lớn của quỹ dự phòng nghiệp vụ, vì theo nguyên tắc chung về bảo hiểm thì quỹ dự phòng nghiệp vụ phải có mối tương quan chặt chẽ đối với đối tượng được bảo hiểm đóchính là số dư t
Luận văn liên quan