Đề tài Thực trạng 5 năm thực hiện chương trình phát triển du lịch Thanh Hóa giai đoạn 2006 – 2010

Du lịch là ngành công nghiệp không khói đem lại hiệu quả kinh tế cao góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên quốc gia và thúc đẩy nhiều ngành kinh tế, kỹ thuật khác phát triển. Theo trào lưu phát triển của du lịch quốc tế, nhiều nước đã đặt sự nghiệp phát triển du lịch lên một trong những vị trí quan trọng hàng đầu và đã gặt hái được thành công trong lĩnh vực này ở những năm gần đây. Với Việt Nam, thực tế đã cho thấy du lịch – ngành siêu lợi nhuận đang ngày càng khẳng định vững chắc vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế quốc dân. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy ngành du lịch phát triển. Nhu cầu về nguồn nhân lực của ngành du lịch Việt Nam đòi hỏi lớn cả về số lượng và chất lượng. Nguồn nhân lực này không chỉ phục vụ trong nội địa đất nước mà còn phục vụ ở nước ngoài thông qua các tập đoàn khách sạn và du lịch hoặc xuất khẩu lao động. Vấn đề giải quyết đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng cũng như duy trì cơ cấu lao động hợp lý quyết định đối với sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam, đưa nước ta trở thành trung tâm du lịch hàng đầu của khu vực. Là điểm đến mới, với nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa phong phú, giá cả thấp, ngành du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Thanh Hóa nói riêng phát triển khá nhanh trong thời gian qua, có tiềm năng, triển vọng tiến xa hơn. Song tương lai của ngành du lịch Thanh Hóa sẽ còn tùy thuộc vào hiệu quả của chính sách phát triển du lịch, việc bảo tồn, phát huy nguồn tài nguyên, nhân lực và sự đánh giá đúng mức hiện trạng và tiềm năng. Xuất phát từ những yêu cầu trên và được sự giúp đỡ, hướng dẫn của cô giáo, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng 5 năm thực hiện chương trình phát triển du lịch Thanh Hóa giai đoạn 2006 – 2010”

doc27 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2797 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng 5 năm thực hiện chương trình phát triển du lịch Thanh Hóa giai đoạn 2006 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Du lịch là ngành công nghiệp không khói đem lại hiệu quả kinh tế cao góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên quốc gia và thúc đẩy nhiều ngành kinh tế, kỹ thuật khác phát triển. Theo trào lưu phát triển của du lịch quốc tế, nhiều nước đã đặt sự nghiệp phát triển du lịch lên một trong những vị trí quan trọng hàng đầu và đã gặt hái được thành công trong lĩnh vực này ở những năm gần đây. Với Việt Nam, thực tế đã cho thấy du lịch – ngành siêu lợi nhuận đang ngày càng khẳng định vững chắc vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế quốc dân. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy ngành du lịch phát triển. Nhu cầu về nguồn nhân lực của ngành du lịch Việt Nam đòi hỏi lớn cả về số lượng và chất lượng. Nguồn nhân lực này không chỉ phục vụ trong nội địa đất nước mà còn phục vụ ở nước ngoài thông qua các tập đoàn khách sạn và du lịch hoặc xuất khẩu lao động. Vấn đề giải quyết đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng cũng như duy trì cơ cấu lao động hợp lý quyết định đối với sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam, đưa nước ta trở thành trung tâm du lịch hàng đầu của khu vực. Là điểm đến mới, với nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa phong phú, giá cả thấp, ngành du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Thanh Hóa nói riêng phát triển khá nhanh trong thời gian qua, có tiềm năng, triển vọng tiến xa hơn. Song tương lai của ngành du lịch Thanh Hóa sẽ còn tùy thuộc vào hiệu quả của chính sách phát triển du lịch, việc bảo tồn, phát huy nguồn tài nguyên, nhân lực và sự đánh giá đúng mức hiện trạng và tiềm năng. Xuất phát từ những yêu cầu trên và được sự giúp đỡ, hướng dẫn của cô giáo, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng 5 năm thực hiện chương trình phát triển du lịch Thanh Hóa giai đoạn 2006 – 2010” 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU - Các cuộc điều tra của Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch, Sở Văn hóa – thể thao và du lịch tỉnh Thanh Hóa về hoạt động du lịch, số lượng và chất lượng của nguồn lao động tại Thanh Hóa. - Việc nghiên cứu về thực trạng nguồn lao động du lịch đã được cụ thể bằng các chương trình, chiến lược phát triển du lịch của tỉnh và của cả nước từ nay đến năm 2015 và 2020 với hàng loạt các chính sách mới. - Một số bài báo viết về hoạt động du lịch ở Thanh Hóa. Tuy nhiên, chưa có một đề tài nghiên cứu chính thức nào về thực trạng thực hiện chương trình phát triển du lịch tại Thanh Hóa trong giai đoạn 2006-2010. 3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Đánh giá thực trạng phát triển, tìm hiểu về kế hoạch triển khai trong thời gian tới và một số giải pháp để phát triển du lịch tại tỉnh Thanh Hóa. 4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU - Nguồn lao động du lịch và khách du lịch tại tỉnh Thanh Hóa. - Kết quả kinh doanh du lịch Thanh Hóa giai đoạn 2006 – 2010. - Các cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ du lịch tại tỉnh Thanh Hóa. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU - Khái quát, đánh giá tổng quan về Thanh Hóa và tình hình phát triển du lịch của tỉnh trong thời gian qua. - Phân tích thực trạng phát triển và đề xuất các giải pháp để phát triển du lịch ở tỉnh Thanh Hóa. 6. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 6.1. Quan điểm nghiên cứu - Quan điểm hệ thống lãnh thổ: Xét hoạt động du lịch Thanh Hóa nằm trong hệ thống hoạt động của ngành du lịch Việt Nam. Lao động du lịch Thanh Hóa là bộ phận của lao động du lịch cả nước, có mối quan hệ mật thiết với lao động trong các ngành kinh tế khác và trong ngành dịch vụ du lịch của các vùng trên lãnh thổ Việt Nam. - Quan điểm tổng hợp: Xem xét nguồn lao động du lịch Thanh Hóa trong mối quan hệ với các điều kiện phát triển du lịch, hiệu quả kinh doanh du lịch và nhu cầu du lịch. Tìm ra nhân tố ảnh hưởng quan trọng tới số lượng và chất lượng nguồn lao động du lịch tại đây. - Quan điểm lịch sử: Đánh giá nguồn lao động du lịch, kết quả du lịch trong một khoảng thời gian dài từ năm 2006 đến nay. Từ đó phát hiện ra quy luật phát triển và có thể dự báo cho tương lai. Yêu cầu về nguồn nhân lực du lịch ngày càng cao, do đó chúng tôi xem xét và đánh giá về chất lượng lao động phù hợp với nhu cầu hiện nay. - Quan điểm phát triển bền vững: Quan điểm phát triển bền vững thể hiện tôn trọng giá trị du lịch của tỉnh Thanh Hóa thông qua việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng đảm bảo nhu cầu của khách du lịch trong việc tìm hiểu, khám phá, thưởng thức vẻ đẹp của nơi đây. Để những giá trị du lịch của Thanh Hóa không bị mất đi. 6.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi đã sử dụng đa dạng các phương pháp nghiên cứu, tuy nhiên phương pháp nghiên cứu điều tra thực địa là phương pháp chủ đạo. Các phương pháp được sử dụng gồm: * Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: + Phương pháp phân tích: + Phương pháp thống kê Phân tích, thống kê các số liệu về : - Nguồn lao động du lịch và khách du lịch tại tỉnh Thanh Hóa. - Kết quả kinh doanh du lịch Thanh Hóa giai đoạn 2006 – 2010. - Các cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ du lịch tại tỉnh Thanh Hóa. * Nhóm phương pháp nghiên cứu thực địa: + Phương pháp điều tra: điều tra cơ bản và điều tra xã hội học. + Các phương pháp quan sát, chuyên gia, toán học, bản đồ, biểu đồ: để điều tra về tình hình phát triển và thực trạng phát triển du lịch của tỉnh Thanh Hóa; tính toán, quan sát để rút ra những kết luận khách quan, có cơ sở thực tiễn. 7. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI Phần I: Phần mở đầu Phần II: Phần nội dung Chương I: Tổng quan về Thanh Hóa Chương II: Thực trạng 5 năm thực hiện chương trình phát triển du lịch Thanh Hóa giai đoạn 2006 – 2010 Chương III: Kế hoạch, giải pháp phát triển du lịch ở tỉnh Thanh Hóa Phần III : Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THANH HÓA I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN 1. Vị trí địa lý Thanh Hoá là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, có toạ độ địa lý từ 19°18’ đến 20°40’ vĩ độ Bắc và từ 104°22’ đến 106°05’ kinh độ Đông. Lãnh thổ của tỉnh về phía Bắc giáp 3 tỉnh : Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình, Với đường ranh giớ hơn 175km. Phía Nam và Tây Nam giáp Nghệ An, với đường ranh giới hơn 160 km. Phía Đông giáp Biển Đông với chiều dài bờ biển 102 km và một thềm lục địa khá rộng. Phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn của nứơc CHDCND Lào và đường biên giới dài 192 km. Điểm cực Bắc ở xã Trung Sơn, phía Đông Bắc huyện Quan Hoá (giáp tỉnh Hoà Bình) nằm ở vĩ tuyến 20’40’B). Điểm cực Nam ở xã Hải Hà gần bờ Biển Tỉnh Gia ( giáp tỉnh Nghệ An) nằm ở vĩ tuyến 19’18’B. Điểm cực Tây là núi Pha Long, xã Quang Chiểu, huyện Mường Lát(giáp Lào) nằm trên kinh tuyến 104’22’Đ. Điểm cực Đông ở xã Nga Điền, huyện Nga Sơn (giáp Ninh Bình) nằm trên kinh tuyến 106’05’Đ. Thanh Hoá là tỉnh có diện tích lớn của vùng Bắc Trung Bộ và của nước ta. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 11.116,34 km2 (theo niên giám thống kê Thanh Hoá, xuất bản năm 2006), chiếm 3,37% diện tích toàn quốc, đứng thứ 5 trong 64 tỉnh, thành phố của cả nước và đứng thứ 2 trong số các tỉnh ở vùng Bắc Trung Bộ. Ý nghĩa của vị trí địa lý đối với phát triển kinh tế xã hội. Thanh Hoá nằm ở vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Bắc và các tỉnh Phía Nam nước ta. Trong lịch sử, nơi đây từng là căn cứ địa vững chắc chống ngoại xâm, là kho nhân tài, vật lực phục vụ tiền tuyến. Vị trí địa lý đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu giữa các tỉnh thành trong nước và trên thế giới. Tỉnh Thanh Hoá nằm gần vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ , với 102 km đường bờ biển, khu vực Nghi Sơn (Tĩnh Gia) có thể xây cảng nước sâu cho tàu trọng tải 10 vạn tấn ra vào. Có đường Quốc Lộ 1A và đường sắt xuyên Việt chạy qua. Thêm vào đó, Thanh Hoá lại có quy mô diện tích lớn, với nhiều vùng sinh thái khác nhau. Những yếu tố đó là điều kiện thuận lợi để có thể phát triển một nền sản xuất hàng hoá đa dạng với nhiều ngành kinh tế mũi nhọn đặc thù, mở rộng giao lưu trong nước và thế giới, đưa nền kinh tế phát triển mạnh, nhanh chóng hội nhập với các tỉnh, thành phố khác trong nước và thế giới. 2. Địa hình Địa hình Thanh Hóa nghiêng từ tây bắc xuống đông nam: phía tây bắc, những đồi núi cao trên 1.000 m đến 1.500 m thoải dần, kéo dài và mở rộng về phía đông nam. Đồi núi chiếm 3/4 diện tích của cả tỉnh; tạo tiềm năng lớn về kinh tế lâm nghiệp, dồi dào lâm sản, tài nguyên phong phú. Vùng miền núi, trung du: Miền núi và đồi trung du chiếm phần lớn diện tích của Thanh Hóa. Riêng miền đồi trung du chiếm một diện tích hẹp và bị xé lẻ, không liên tục, không rõ nét như ở Bắc Bộ. Do đó nhiều nhà nghiên cứu đã không tách miền đồi trung du của Thanh Hóa thành một bộ phận địa hình riêng biệt mà coi các đồi núi thấp là một phần không tách rời của miền núi nói chung. Miền đồi núi Thanh Hóa được chia làm 3 bộ phận khác nhau: bao gồm 11 huyện: Như Xuân, Như Thanh, Thường Xuân, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, Ngọc Lặc, Cẩm Thủy và Thạch Thành chiếm 2/3 diện tích của tỉnh. Vùng đồi núi phía tây có khí hậu mát, lượng mưa lớn nên có nguồn lâm sản dồi dào, lại có tiềm năng thủy điện lớn, trong đó sông Chu và các phụ lưu có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng các nhà máy thủy điện. Miền đồi núi phía Nam đồi núi thấp, đất màu mỡ thuận lợi trong việc phát triển cây công nghiệp, lâm nghiệp, cây đặc sản và có Vườn quốc gia Bến En (thuộc hai huyện Như Thanh và Như Xuân), có rừng phát triển tốt, với nhiều gỗ quý, thú quý. Vùng đồng bằng: Vùng đồng bằng của Thanh Hóa lớn nhất của miền Trung và thứ ba của cả nước. Đồng bằng Thanh Hoá diện tích bằng 1/2 diện tích của các đồng bằng Trung Bộ cộng lại, tức khoảng 3000 km². Đồng bằng Thanh Hóa có đầy đủ tính chất của một đồng bằng châu thổ, do phù sa các hệ thống sông Mã, sông Yên, sông Hoạt bồi đắp. Điểm đồng bằng thấp nhất so với mực nước biển là 1m. Vùng ven biển: Các huyện từ Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Sầm Sơn, Quảng Xương đến Tĩnh Gia, chạy dọc theo bờ biển gồm vùng sình lầy ở Nga Sơn và các cửa sông Hoạt, sông Mã, sông Yên và sông Bạng. Bờ biển dài, tương đối bằng phẳng, có bãi tắm nổi tiếng Sầm Sơn, có những vùng đất đai rộng lớn thuận lợi cho việc lấn biển, nuôi trồng thủy sản, phân bố các khu dịch vụ, khu công nghiệp, phát triển kinh tế biển (ở Nga Sơn, Nam Sầm Sơn, Nghi Sơn). 3. Khí hậu Thanh Hoá nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa với đặc điểm chung là nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh, ít mưa. Khí hậu có 2 mùa rõ rệt, mùa nóng trùng với mùa mưa, còn mùa lạnh trùng với mùa khô. Đặc biệt trong mùa nóng có sự xuất hiện của gió Tây vào đầu mùa (hàng năm có 20-30 ngày có gió Tây khô nóng). Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 23-24oC ở vùng đồng bằng trung du, giảm dần khi lên vùng núi và xuống 18-200C ở vùng biên giới Việt - Lào. Hàng năm có 4 tháng nhiệt độ trung bình xuống dưới 20oC (từ tháng 12 đến tháng 3), tháng lạnh nhất là tháng 1 với nhiệt độ trung bình 17-18oC (cao hơn đồng Bằng Bắc Bộ khoảng 1oC). Tổng nhiệt độ cả năm khoảng 8600-8700oC ở vùng đồng bằng, giảm xuống 8000oC ở miền núi. Lượng mưa trung bình năm từ 1600-1800 mm. số ngày mưa từ 130-150 ngày/năm. Mùa mưa thường kéo dài 6 tháng, bắt đầu từ tháng 5 kết thúc vào tháng 10. Các tháng mưa nhiều là 8,9,10. Mùa mưa tập trung đến 60-80% lượng mưa của cả năm nên dễ gây ra lũ lụt nhất là ở vùng có địa hình thấp như ở các vùng ven biển. 4. Thủy văn Thanh Hoá có 20 sông lớn nhỏ chảy từ Tây Bắc xuống Đông Nam và 264 khe suối chằng chịt thuộc 4 hệ thống sông chính là: Sông Mã, sông Lạch Bạch, sông Yên, sông Hoạt. Tổng chiều dài các hệ thống sông là 881km, tổng diện tích lưu vực 39.756km2, tổng lượng nước trung bình hằng năm: 19,52 tỉ m3. Trữ lượng nước trên mặt này có thể thoả mãn nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống. Sông suối Thanh Hóa chảy qua nhiều vùng địa hình phức tạp, tạo ra tiềm năng thuỷ điện khá lớn. Riêng sông Mã đã có trữ lượng điện năng đạt tới 12 tỉ kw/h. Đặc điểm nổi bật của sông ngòi Thanh Hoá là: Tổng chiều dài của 16 sông chính và nhánh là 1.072km. Mật độ sông ngòi không lớn từ 0,1-1,06km/km2. Các sông đều ngắn (trừ sông Mã) và có độ dốc lớn. Nhưng ở vùng sát biển, có độ dốc nhỏ, chịu ảnh hưởng của thuỷ triều và nước mặn. Ngoài nguồn nước mặn, Thanh Hoá còn có nước ngầm. Nước ngầm tuy chiếm tỉ lệ nhỏ so với nguồn nước mặn nhưng là nguồn bổ sung quan trọng để phục vụ sản xuất và sinh hoạt trong thời kì mùa khô. Trữa lượng nước ngầm ở thành phố Thanh Hoá là 9.000m3/ngày, Thị xã Sầm Sơn 2.600m3/ngày, thị xã Bỉm Sơn 133.900m3/ngày, huyện Tĩnh Gia 16.630m3/ngày. II. TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN 1. Tài nguyên đất Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 1.112.033 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp 245.367 ha; đất sản xuất lâm nghiệp 553.999 ha; đất nuôi trồng thuỷ sản 10.157 ha; đất chưa sử dụng 153.520 ha với các nhóm đất thích hợp cho phát triển cây lương thực, cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và cây ăn quả. 2. Tài nguyên rừng Thanh Hoá là một trong những tỉnh có tài nguyên rừng lớn với diện tích đất có rừng là 484.246 ha, trữ lượng khoảng 16,64 triệu m3 gỗ, hàng năm có thể khai thác 50.000 - 60.000 m3. Rừng Thanh Hoá chủ yếu là rừng cây lá rộng, có hệ thực vật phong phú đa dạng về họ, loài; có các loại gỗ quý hiếm như: lát, pơ mu, sa mu, lim xanh, táu, sến, vàng tâm, dổi, de, chò chỉ. Các loại thuộc họ tre nứa gồm có: luồng, nứa, vầu, giang, tre. Ngoài ra còn có: mây, song, dược liệu, quế, cánh kiến đỏ … Các loại rừng trồng có luồng, thông nhựa, mỡ, bạch đàn, phi lao, quế, cao su. Thanh Hoá là tỉnh có diện tích luồng lớn nhất trong cả nước với diện tích trên 50.000 ha. Rừng Thanh Hoá cũng là nơi quần tụ và sinh sống của nhiều loài động vật như: hươu, nai, hoẵng, vượn, khỉ, lợn rừng, các loài bò sát và các loài chim … Đặc biệt ở vùng Tây nam của tỉnh có rừng quốc gia Bến En, vùng Tây Bắc có các khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, Pù Luông, Xuân Liên, là những khu rừng đặc dụng, nơi tồn trữ và bảo vệ các nguồn gien động, thực vật quí hiếm, đồng thời là các điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách.  3. Tài nguyên biển Thanh Hoá có 102 km bờ biển chạy dài từ của đáy (Ninh Bình) dến Đông Hồi (Tĩnh Gia) và vùng lãnh hải rộng lớn với diện tích 1,7 vạn km2. Dọc bờ biển có 7 cửa lớn nhỏ, trong đó có 5 cửa chính là Lạch Sung,Lạch Trường, Lạch Trào (Cửa Hới), Lạch Bạch, Lạch Ghép. Các cửa này tạo điều kiện thuận lợi cho giao thong đường thuỷ, cho tàu đánh cá ra vào. Vùng của và bãi bồi thuận tiện cho việc nuôi trồng thuỷ sản, trồng cói, trồng cây chắn song. Đáy biển cùng gần bờ là dải cát thoải, bằng phẳng. có một số vụng như vụng Gầm ở Sầm Sơn, vụng Quyền, vụng Thủi, vụng Biên ở Tĩnh Gia và đảo Hòn Ne, Hòn Mê, thuận lợi cho việc cư trú của các loài hải sản quý hiếm. Đồng thời là vùng trú ẩn an toàn cho tàu thuyền đánh cá vận tải. ven biển còn có nhiều cảnh quan hấp dẫn về du lịch, tắm biển như bãi tắm Sầm Sơn , Hải Hoà, Ba Lang, bán đảo Biện Sơn. Vùng biển Thanh Hoá có nhiều hải sản, trong đó nhiều loại có giá trị kinh tế như cá chim, cá thu, cá nụ, cá đé, tôm hùm, mực… Thanh Hoá có 8000 ha bãi triều là cơ sở để nuôi trồng thuỷ sản nước lợ. diện tích nước mặn khoảng 10.000 ha có thể nuôi cá song, cá cam, trai ngọc, tôm hùm. Phân bố chủ yếu ở vùng đảo Hòn Mê, Biện Sơn. 4. Tài nguyên khoáng sản Thanh Hoá là một trong số ít các tỉnh ở Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng; có 296 mỏ và điểm khoáng sản với 42 loại khác nhau, nhiều loại có trữ lượng lớn so với cả nước như: đá granit và marble (trữ lượng 2 -3 tỉ m3), đá vôi làm xi măng (trên 370 triệu tấn), sét làm xi măng (85 triệu tấn), crôm (khoảng 21 triệu tấn), quặng sắt (2 triệu tấn), secpentin (15 triệu tấn), đôlômit (4,7 triệu tấn), ngoài ra còn có vàng sa khoáng và các loại khoáng sản khác. 5. Tài nguyên nước Thanh Hóa có 4 hệ thống sông chính là sông Hoạt, sông Mã, sông Bạng, sông Yên với tổng chiều dài 881 km, tổng diện tích lưu vực là 39.756km2; tổng lượng nước trung bình hàng năm 19,52 tỉ m3. Sông suối Thanh Hoá chảy qua nhiều vùng địa hình phức tạp, là tiềm năng lớn cho phát triển thủy điện. Nước ngầm ở Thanh Hoá cũng rất phong phú về trữ lượng và chủng loại bởi vì có đầy đủ các loại đất đá trầm tích, biến chất, mac ma và phun trào. II. LỊCH SỬ VÀ DI TÍCH Thanh Hóa có bề dày lịch sử hào hùng và truyền thống văn hoá độc đáo. Vào sơ kỳ thời đại đá cũ, bằng sự phát hiện và khai quật khảo cổ các di chỉ Núi Đọ, Núi Quan Yên, Núi Nuông đã khẳng định Thanh Hóa là nơi sinh sống của người nguyên thuỷ, đặc biệt hang Con Mong là nơi chứng kiến các giai đoạn phát triển liên tục của con người từ hậu kỳ đá cũ sang thời đại đá mới. Quá trình chinh phục đồng bằng trên đất Thanh Hóa của cư dân đồ đá mới đã để lại một nền văn hoá Đa Bút, là một nền văn hoá khảo cổ tiến bộ cùng thời trong khu vực cách đây 6.000 năm. Sang đầu thời đại kim khí, thuộc thời đại đồ đồng, qua các bước phát triển với các giai đoạn trước văn hoá Đông Sơn, Thanh Hóa đã trải qua một tiến trình phát triển với các giai đoạn văn hoá: Cồn Chân Tiên, Đông Khối - Quỳ Chữ tương đương với các văn hoá Phùng Nguyên - Đồng Dậu - Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Đó là quá trình chuẩn bị mọi mặt để đến văn minh Văn Lang cách đây hơn 2.000 năm lịch sử, văn hoá Đông Sơn ở Thanh Hóa đã toả sáng rực rỡ trong đất nước của các Vua Hùng.  Suốt mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Thanh Hóa đã xuất hiện nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân tiêu biểu như: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Khương Công Phụ, Lê Văn Hưu, Lê Thánh Tông, Đào Duy Từ, ... Cùng với những trang lịch sử oai hùng, Thanh Hóa có 1.535 di tích, trong đó có 134 di tích được xếp hạng quốc gia, 412 di tích đã xếp hạng cấp tỉnh với các di tích nổi tiếng như Núi Đọ, Đông Sơn, khu di tích Bà Triệu, Lê Hoàn, thành Nhà Hồ, Lam Kinh, Ba Đình, Hàm Rồng ...  càng khẳng định xứ Thanh là một vùng “Địa linh nhân kiệt”.  III. HỆ THỐNG CÁC NGÀNH DỊCH VỤ Ngân hàng Hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh gồm Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng Sài Gòn thương tín... Hiện nay các ngân hàng đang thực hiện đổi mới và đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, áp dụng các công nghệ tiên tiến trong việc chuyển phát nhanh, thanh toán liên ngân hàng, thanh toán quốc tế đảm bảo an toàn và hiệu quả. Tổng nguồn vốn huy động hàng năm tăng bình quân 18%, doanh số cho vay bình quân tăng 17,3%, tổng dư nợ tăng bình quân hàng năm 17%.  Bảo hiểm Thanh Hoá được xác định là thị trường tiềm năng của nhiều loại hình bảo hiểm. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh có các doanh nghiệp bảo hiểm hàng đầu trên cả nước hoạt động như Bảo Việt, Bảo Minh, ... Các công ty Bảo hiểm trên địa bàn không ngừng mở rộng thị trường, cạnh tranh lành mạnh, nhằm mục đích nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.  Thương mại Mạng lưới thương mại Thanh Hoá ngày càng được mở rộng, hệ thống siêu thị ở đô thị và hệ thống chợ ở nông thôn phát triển nhanh, văn minh thương mại đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các hộ kinh doanh cá thể tham gia ngày càng nhiều trong lĩnh vực thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống nhân dân. Kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm tăng trên 23%. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nông-lâm-thuỷ sản (chiếm 51,4%), công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (24,6%), khoáng sản - vật liệu xây dựng (13,4%)… Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng. Bên cạnh thị trường truyền thống như: Nhật Bản, Đông Nam Á, một số sản phẩm đã được xuất khẩu sang Hoa Kỳ, Châu Âu.  Du lịch Thanh Hoá là tỉnh có tiềm năng lớn về du lịch, là một trong những trọng điểm du lịch quốc gia. Với hàng nghìn di tích lịch sử gắn với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam  và các danh lam thắng cảnh kỳ thú như bãi tắm biển Sầm Sơn, khu nghỉ mát Hải Tiến (Hoằng Hoá), Hải Hoà (Tĩnh Gia), vườn quốc gia Bến En (Như Thanh), động Từ Thức (Nga Sơn), suối cá “thần” Cẩm Lương (Cẩm Thuỷ), sân chim Tiến Nông (Triệu Sơn)… Lợi thế về địa lý, giao thông và với lòng hiếu khách của con người  xứ Thanh, Thanh Hoá sẽ là điểm đến rất hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước. Phát triển du lịch là một trong những chương trình trọng tâm của tỉnh trong thời gian tới.  V. NGUỒN NHÂN LỰC 1. Dân số:  Năm 2005 Thanh Hoá có 3,67 triệu người;
Luận văn liên quan