Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, văn minh, quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập và bảo vệ vốn đất như ngày nay. Đất đai là tài nguyên có hạn về số lượng, có vị trí cố định trong không gian, không thể thay thế và di chuyển được theo ý muốn chủ quan của con người. Chính vì vậy, việc quản lý và sử dụng tài nguyên quý giá này một cách hợp lý không những có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước mà còn đảm bảo cho mục tiêu chinh trị và phát triển xã hội.
Đất đai luôn là yếu tố không thể thiếu được đối với bất cứ quốc gia nào. Ngay từ khi loài người biết đến chăn nuôi, trồng trọt, thì vấn đề sử dụng đất đai không còn đơn giản nữa bởi nó phát triển song song với những tiến bộ của nền khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội, chính trị. Khi xã hội càng phát triển thì giá đất (giá Quyền sử dụng đất) ngày càng cao và luôn giữ được vị trí quan trọng như Mác đã khẳng định: “Lao động là cha, đất là mẹ sản sinh ra của cải vật chất”. Do đó, việc quản lý đất đai luôn là mục tiêu Quốc gia của mọi thời đại nhằm nắm chắc và quản lý chặt quỹ đất đai đảm bảo việc sử dụng đất đai tiết kiệm và có hiệu quả.
Nước ta, với tổng diện tích tự nhiên là 32.924.061 ha (chỉ tính riêng phần đất liền) thuộc loại trung bình đứng thứ 60 trong số 160 nước trên thế giới, đứng thứ 4 trên tổng số 11 nước trong khu vực Đông Nam Á; dân số khoảng 80 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới và thứ 2 khu vực Đông Nam Á. Bình quân diện tích đất tự nhiên tính theo đầu người rất thấp chỉ khoảng 4500 m2. Bình quân diên tích đất nông nghiệp theo đầu người thấp chỉ khoảng hơn 1000 m2. Vì vậy, để việc quản lý và sử dụng đất đai ngày càng có hiệu quả, góp phần vào công cuộc cải tạo xã hội - xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện Luật Đất đai cũng như các quy định khác vẫn còn nhiều hạn chế trong khâu tổ chức thực hiện. Nhiều văn bản tính chất pháp lý còn chồng chéo và mâu thuẫn, tình trạng chuyển dịch đất đai ngoài sự kiểm soát của pháp luật xảy ra. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình còn chậm đặc biệt đối với đất ở Đối với vấn đề cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đô thị và quyền sở hữu nhà ở thì triển khai còn chưa đồng bộ, kết quả đạt được thấp. Việc tranh chấp đất đai diễn ra dưới nhiều hình thức, việc phát triển các khu dân cư mới ven đô thị lấy từ đất lúa còn đang diễn ra ở nhiều nơi. Đứng trước thực trạng đó, để đưa vào việc quản lý và sử dụng đất đai ngày càng có hiệu quả, góp phần vào công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, cần phải rút kinh nghiệm từ thực tế trong quá trình quản lý và sử dụng đất. Trên cơ sở đó, xây dựng các biện pháp nhằm quản lý và sử dụng đất hiệu quả hơn, bền vững hơn.
Để đánh giá được một cách đầy đủ và khoa học tình hình quản lý đất đô thị trên địa bàn một phường của thành phố Hà Nội. Được sự phân công của khoa Địa lý, dưới sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Trọng Đợi, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất đai tại phường Thanh Xuân Nam - quận Thanh Xuân – thành phố Hà Nội”.
62 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 17399 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất đai tại phường Thanh Xuân Nam - Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời cảm ơn
Trong 4 năm học tại trường ĐH Quy Nhơn em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong trường đặc biệt là các thầy cô giáo trong khoa Địa lý. Với lòng cảm ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong trường nói chung và trong khoa Địa lý nói riêng.
Đặc biệt để hoàn thành đợt thực tập tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực cố gắng học hỏi của bản thân, em còn nhận được sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Nguyễn Trọng Đợi – giảng viên khoa Đia lý - Trường ĐH Quy Nhơn, cùng cán bộ của Phòng địa chính - nhà đất - xây dựng - đô thị của phường Thanh Xuân Nam là đơn vị đã trực tiếp giúp đỡ em trong thời gian nghiên cứu đề tài, sự động viên quan tâm giúp đỡ của gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành đợt thực tập.
Đồ án tốt nghiệp sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, nên em mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy cô cùng các bạn sinh viên để em có thể vững bước hơn trong chuyên môn sau này.
Quy Nhơn, tháng 3 năm 2009
Sinh viên
Lương Thị Thu Hương
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CSHT : Cơ sở hạ tầng
HĐND : Hội đồng nhân dân
KH-UB : Kế hoạch-Uỷ ban
KD : Kinh doanh
KT : Kinh tế
KTXH : Kinh tế - xã hội
GCN : Giấy chứng nhận
GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo
GPMB : Giải phóng mặt bằng
GTVT : Giao thông vận tải
NĐ : Nghị định
NQ : Nghị quyết
QLNN : Quản lý nhà nước
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TDTT : Thể dục thể thao
THCS : Trung học cơ sở
TN&MT : Tài nguyên và môi trường
TP : Thành phố
UBND : Uỷ ban nhân dân
UBTV : Uỷ ban thường vụ
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, văn minh, quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập và bảo vệ vốn đất như ngày nay. Đất đai là tài nguyên có hạn về số lượng, có vị trí cố định trong không gian, không thể thay thế và di chuyển được theo ý muốn chủ quan của con người. Chính vì vậy, việc quản lý và sử dụng tài nguyên quý giá này một cách hợp lý không những có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước mà còn đảm bảo cho mục tiêu chinh trị và phát triển xã hội.
Đất đai luôn là yếu tố không thể thiếu được đối với bất cứ quốc gia nào. Ngay từ khi loài người biết đến chăn nuôi, trồng trọt, thì vấn đề sử dụng đất đai không còn đơn giản nữa bởi nó phát triển song song với những tiến bộ của nền khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội, chính trị... Khi xã hội càng phát triển thì giá đất (giá Quyền sử dụng đất) ngày càng cao và luôn giữ được vị trí quan trọng như Mác đã khẳng định: “Lao động là cha, đất là mẹ sản sinh ra của cải vật chất”. Do đó, việc quản lý đất đai luôn là mục tiêu Quốc gia của mọi thời đại nhằm nắm chắc và quản lý chặt quỹ đất đai đảm bảo việc sử dụng đất đai tiết kiệm và có hiệu quả.
Nước ta, với tổng diện tích tự nhiên là 32.924.061 ha (chỉ tính riêng phần đất liền) thuộc loại trung bình đứng thứ 60 trong số 160 nước trên thế giới, đứng thứ 4 trên tổng số 11 nước trong khu vực Đông Nam Á; dân số khoảng 80 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới và thứ 2 khu vực Đông Nam Á. Bình quân diện tích đất tự nhiên tính theo đầu người rất thấp chỉ khoảng 4500 m2. Bình quân diên tích đất nông nghiệp theo đầu người thấp chỉ khoảng hơn 1000 m2. Vì vậy, để việc quản lý và sử dụng đất đai ngày càng có hiệu quả, góp phần vào công cuộc cải tạo xã hội - xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện Luật Đất đai cũng như các quy định khác vẫn còn nhiều hạn chế trong khâu tổ chức thực hiện. Nhiều văn bản tính chất pháp lý còn chồng chéo và mâu thuẫn, tình trạng chuyển dịch đất đai ngoài sự kiểm soát của pháp luật xảy ra. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình còn chậm đặc biệt đối với đất ở… Đối với vấn đề cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đô thị và quyền sở hữu nhà ở thì triển khai còn chưa đồng bộ, kết quả đạt được thấp. Việc tranh chấp đất đai diễn ra dưới nhiều hình thức, việc phát triển các khu dân cư mới ven đô thị lấy từ đất lúa còn đang diễn ra ở nhiều nơi. Đứng trước thực trạng đó, để đưa vào việc quản lý và sử dụng đất đai ngày càng có hiệu quả, góp phần vào công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, cần phải rút kinh nghiệm từ thực tế trong quá trình quản lý và sử dụng đất. Trên cơ sở đó, xây dựng các biện pháp nhằm quản lý và sử dụng đất hiệu quả hơn, bền vững hơn.
Để đánh giá được một cách đầy đủ và khoa học tình hình quản lý đất đô thị trên địa bàn một phường của thành phố Hà Nội. Được sự phân công của khoa Địa lý, dưới sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Trọng Đợi, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất đai tại phường Thanh Xuân Nam - quận Thanh Xuân – thành phố Hà Nội”.
2. Mục đích
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc quản lý và sử dụng đất theo hiến pháp và pháp luật đất đai.
- Tìm hiểu công tác quản lý nhà nước về đất đai của phường Thanh Xuân Nam - quận Thanh Xuân - thành phố Hà Nội.
- Tìm hiểu nguyên nhân gây áp lực đến công tác quản lý nhà nước về đất đai tại phường và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý và sử dụng đất của phương Thanh Xuân Nam trong thời gian tới.
3. Yêu cầu
- Số liệu đưa ra phải phản ánh trung thực khách quan thực trạng quản lý và sử dụng đất đai của phường.
- Những kiến nghị và đề xuất phải có tính khả thi phù hợp với thực trạng của phường.
- Có những đề xuất và kiến nghị với tình hình thực tế của địa phương.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài thực hiện trong phạm vi của phường Thanh Xuân Nam - quận Thanh Xuân - thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu các văn bản luật, dưới luật về quản lý và sử dụng đất do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Phương pháp thống kê, thu thập và xử lý số liệu.
+ Thông tin được thu thập chủ yếu là cơ sở lý luận và các quy định của các cơ quan Nhà nước ở trung ương và các cơ quan Nhà nước ở địa phương về quản lý đất đô thị, trên cơ sở đó thu thập được những số liệu về việc sử dụng đất ở địa phương. Nguồn thông tin này được thu thập chủ yếu qua Công báo, các trang web của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
+ Phương pháp thống kê được dùng để xử lý các tài liệu, đặc biệt là các số liệu thực tiễn về việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đô thị. Qua đó, có được các số liệu, thông tin tin cậy trình bày trong đồ án.
Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu.
Phương pháp này được sử dụng để tập hợp, phân tổ và phân tích các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đô thị và phân tích thông tin về thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về nội dung này. Ngoài ra, phương pháp tổng hợp và phân tích thông tin cũng được sử dụng để có được kết quả tổng hợp, có được các đánh giá, nêu ra các luận cứ khoa học trình bày trong đồ án.
Phương pháp so sánh: so sánh giữa lý thuyết và thực tế về tình hình quản lý và sử dụng đất đô thị của phường.
Sử dụng để so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam với quy định của pháp luật một số nước khác từ đó chỉ ra các quy định tương thích, các quy định không tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước đó; thấy được nguyên nhân của những thành công và hạn chế của việc thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về quản lý và sử dụng đất đô thị.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐẤT ĐAI Ở NƯỚC TA
1.1. Đất đai và quản lý nhà nước về đất đai trong chế độ sở hữu toàn dân ở nước ta
1.1.1. Đất đai
* Vai trò của đất đai
Đất đai là tặng vật quý giá mà thiên nhiên ban tặng, không do con người tạo ra. Đất đai không tự sinh ra và cũng không tự nhiên mất đi, nó chỉ chuyển hoá từ mục đích sử dụng này sang mục đích sử dụng khác nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người.
Lịch sử phát triển của nhân loại luôn gắn liền với đất đai. Tất cả các cuộc chiến tranh trên Thế giới và các cuộc đấu tranh dựng nước, giữ nước đều có liên quan đến đất đai bởi đất đai là yếu tố cấu thành lên mỗi quốc gia, là điều kiện không thể thiếu đối với môi trường sống và mọi ngành kinh tế.
Đất đai là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, có đất đai mới có các hoạt động sống diễn ra. Đất đai ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh thái của con người và các sinh vật trên trái đất.
Đất đai là địa bàn phân bố dân cư, địa bàn sản xuất của con người. Trong công nghiệp, đất đai có vai trò là nền tảng, cơ sở, địa điểm để tiến hành các thao tác, hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất đai có vai trò đặc biệt, không những là địa điểm thực hiện quá trình sản xuất mà nó còn là tư liệu lao động để con người khai thác và sử dụng.
Trong mọi nền kinh tế – xã hội thì lao động, tài chính, đất đai và các nguồn tài nguyên là ba nguồn lực đầu vào và đầu ra là sản phẩm hàng hóa. Ba nguồn lực này phối hợp với nhau, tương tác lẫn nhau, chuyển đổi qua lại để tạo nên một cơ cấu đầu vào hợp lý, quyết định tính hiệu quả trong phát triển kinh tế. Ngày nay, đất đai trở thành nguồn nội lực quan trọng, nguồn vốn to lớn của mọi quốc gia.
Có thể khẳng định rằng, đất đai là tài nguyên quan trọng, không thể thay thế được nhưng đất đai chỉ có thể phát huy vai trò của nó dưới những tác động tích cực của con người một cách thường xuyên. Ngược lại, đất đai không phát huy tác dụng nếu con người sử dụng đất một cách tùy tiện. Dù trong thực tế, mỗi quốc gia đều có cách tiếp cận riêng, thống nhất với đặc điểm chung của đất đai và hoàn cảnh lịch sử của mình song mọi cách tiếp cận đều nhằm mục tiêu bảo đảm nguồn lực đất đai để phát triển kinh tế đất hiệu quả và xác lập quyền bình đẳng về hưởng dụng đất đai để tạo ổn định kinh tế – xã hội. Do đó, đất đai trở thành mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia.
* Đặc trưng của đất đai
Với vai trò hết sức quan trọng, đất đai được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, có những đặc trưng riêng không giống những vật thể khác. Bởi đất đai có những đặc trưng:
Có nguồn cung giới hạn trong khi số lượng người và của cải do con người tạo ra ngày càng tăng. Như vậy, có thể so sánh tương đối thì nguồn cung về đất đai ngày càng hạn hẹp trong khi giá trị sử dụng của đất ngày càng tăng.
Đất đai luôn tồn tại trong tự nhiên, liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau trong xã hội, người có quyền đối với đất không thể cất giấu được cho riêng mình, khi sử dụng phải tuân theo các nguyên tắc chung của xã hội.
Đất đai không do con người tạo ra, không bị tiêu hao trong quá trình sử dụng. Do đó, khả năng sinh lợi của đất đai phụ thuộc vào khả năng sử dụng, khai thác của con người.
1.1.2. Vai trò của quản lý nhà nước về đất đai trong chế độ sở hữu toàn dân ở nước ta
Ở Việt Nam hiện nay, đất đai là tài nguyên quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân, chỉ có Nhà nước mới đủ tư cách là người đại diện hợp pháp. Do đó, đất đai phải được sự thống nhất quản lý của Nhà nước.
* Vai trò của quản lý nhà nuớc về đất đai trong chế độ sở hữu toàn dân ở nớc ta
Ở Việt Nam, do hoàn cảnh lịch sử riêng, trong điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể và mục tiêu phát triển đã xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý (Điều 19 Hiến pháp 1980 và Điều 17 Hiến pháp 1992). Đây là cơ sở pháp lý cao nhất xác định rõ Nhà nước ta là đại diện chủ sở hữu đối với toàn bộ quỹ đất quốc gia.
Căn cứ để xác lập chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam:
Đất đai là tặng vật của thiên nhiên, do đó chế độ sở hữu tư nhân về đất đai là vô lý bởi không ai có quyền chiếm hữu những thứ không phải do mình tạo ra ;
Các cuộc chiến tranh chống xâm lược từ xưa đến nay của cha ông đều phải trả bằng xương máu và sức lực của toàn dân tộc mới giữ được chủ quyền quốc gia;
Mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nguyên tắc một số tư liệu sản xuất chủ yếu trong đó có đất đai phải thuộc sở hữu tập thể (toàn dân);
Trong xã hội công nghiệp, quyền chiếm hữu, sử dụng và quyền quản lý có thể tách rời nhau mà không ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng về mặt kinh tế, xã hội. Do đó, quan trọng là phải xác định rõ quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất khi được Nhà nước trao quyền sử dụng thông qua các hình thức giao đất, cho thuê đất…
Nước ta đã trải qua thời gian chiến tranh lâu dài với sự thay đổi của nhiều chế độ chính trị, biến động về đất đai cũng như chủ sử dụng rất phức tạp, lịch sử quan hệ đất đai để lại cũng rất phức tạp. Việc thống nhất chế độ sở hữu toàn dân về đất đai sẽ tạo điều kiện thiết lập một nền chính trị ổn định, cải thiện hệ thống hành chính công, tạo công bằng xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh – quốc phòng.
Nhà nước nắm quyền định đoạt chủ yếu thông qua hệ thống quản lý đất đai sẽ gây động lực để người sử dụng phải nỗ lực tạo hiệu quả trong việc sử dụng đất cao nhất. Đất đã giao để sử dụng mà không sử dụng, sử dụng không hiệu quả hoặc sử dụng sai quy định của pháp luật sẽ bị thu hồi.
* Chế độ sở hữu đất đai ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là người đại diện duy nhất. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai. Nhà nước thực hiện các quyền của một chủ sở hữu như sau:
Quyền định đoạt đối với đất đai
Quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định, xét duyệt quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất;
Quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất;
Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất, thu hồi đất;
Định giá đất.
Quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai
Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất;
Thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất;
Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại.
Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định, quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Nhà nước thống nhất quản lý về đất đai trong cả nước.
Nhà nước có chính sách đầu tư cho việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai, xây dựng hệ thống quản lý đất đai hiện đại, đủ năng lực, bảo đảm quản lý đất đai có hiệu lực và hiệu quả.
* Chế độ sử dụng đất đai
Với chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước quy định chế độ sử dụng đất đai như sau:
Nhà nước giao quyền sử dụng đất như một tài sản cho người sử dụng đất trong hạn mức phù hợp với mục đích sử dụng và Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối với người sử dụng đất hợp pháp.
Người sử dụng đất được Nhà nước cho phép thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn, tặng cho đối với một số chế độ sử dụng đất cụ thể và trong thời hạn sử dụng đất.
Nhà nước thiết lập hệ thống quản lý nhà nước về đất đai thống nhất trong cả nước. Mô hình này tạo được ổn định xã hội, xác lập được tính công bằng trong hưởng dụng đất và bảo đảm được nguồn lực đất đai cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp với mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mối quan hệ của Nhà nước và người sử dụng đất thể hiện qua sơ đồ hình vẽ dưới đây:
Chủ sở hữu đất đai (Nhà nước)
Quyền
Nghĩa vụ
Người sử dụng đất
Quyền
- Nghĩa vụ
Đất đai:
Chế độ sở hữu
Chế độ sử dụng
Quản lý nhà nước về đất đai:
Nhiệm vụ quản lý
Trách nhiệm quản lý
Chuyển giao, cho thuê,
Mượn, thuê nhân công
Luật pháp, quy hoạch, kinh tế
Định đoạt, chiếm hữu, sử dụng và hưởng lợi
Giúp đỡ và giám sát thực hiện quyền và nghĩa vụ
Đăng ký, hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận về đất
Sử dụng
Hưởng lợi
Hình 1 : Sơ đồ về mối quan hệ giữa người sử dụng đất và Nhà nước
* Vai trò của công tác quản lý nhà nước về đất đai
Có vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội loài người và có những đặc trưng riêng, đất đai được Nhà nước thống nhất quản lý nhằm:
Bảo đảm sử dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Đất đai được sử dụng vào tất cả các hoạt động của con người, tuy có hạn về mặt diện tích nhưng sẽ trở thành năng lực sản xuất vô hạn nếu biết sử dụng hợp lý. Thông qua chiến lược sử dụng đất, xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Nhà nước điều tiết để các chủ sử dụng đất sử dụng đúng mục đích, đúng quy hoạch nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược đã đề ra.
Thông qua đánh giá, phân loại, phân hạng đất đai, Nhà nước nắm được quỹ đất tổng thể và cơ cấu từng loại đất. Trên cơ sở đó có những biện pháp thích hợp để sử dụng đất đai có hiệu quả cao nhất.
Việc ban hành các chính sách, các quy định về sử dụng đất đai tạo ra một hành lang pháp lý cho việc sử dụng đất đai, tạo nên tính pháp lý cho việc bảo đảm lợi ích chính đáng của người sử dụng đất đồng thời cũng bảo đảm lợi ích của Nhà nước trong việc sử dụng, khai thác quỹ đất.
Thông qua việc giám sát, kiểm tra, quản lý và sử dụng đất đai, Nhà nước nắm bắt tình hình biến động về sử dụng từng loại đất, đối tượng sử dụng đất. Từ đó, phát hiện những mặt tích cực để phát huy, điều chỉnh và giải quyết những sai phạm.
Việc quản lý nhà nước về đất đai còn giúp Nhà nước ban hành các chính sách, quy định, thể chế, đồng thời bổ sung, điều chỉnh những chính sách, nội dung còn thiếu, không phù hợp, chưa phù hợp với thực tế và góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống.
Để thực hiện được chức năng quản lý của mình, Nhà nước phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản:
Nguyên tắc đảm bảo quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước;
Nguyên tắc bảo đảm sự kết hợp giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai;
Nguyên tắc bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa các lợi ích thu được từ đất đai;
Nguyên tắc sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả cao nhất.
1.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với đất đai
Là tổng hợp các hoạt động của cơ quan Nhà nước về đất đai. Đó là các hoạt động trong việc nắm và quản lý tình hình sử dụng đất đai, trong việc phân bổ đất đai vào các mục đích sử dụng đất theo chủ trương của Nhà nước, trong việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng đất đai.
Muốn đạt được mục tiêu quản lý, Nhà nước cần phải xây dựng hệ thống cơ quan quản lý đất đai có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng để thực thi có hiệu quả trách nhiệm được Nhà nước phân công, đồng thời ban hành các chính sách, chế độ, thể chế phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước đáp ứng được nội dung quản lý nhà nước về đất đai. Điều này thể hiện chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là quản lý mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội trong đó có quản lý đất đai. Mục đích cuối cùng của Nhà nước và người sử dụng đất là làm sao khai thác tốt nhất tiềm năng của đất đai để phục vụ cho các mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước. Vì vậy, đất đai cần phải được thống nhất quản lý theo quy hoạch và pháp luật.
1.2.1. Luật Đất đai 1987
Ra đời đánh dấu bước tiến quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đất đai ở Việt Nam. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai của Luật này được quy định tại Điều 9, bao gồm:
Điều tra, khảo sát, đo đạc, phân hạng đất đai và lập bản đồ địa chính;
Quy hoạch, kế hoạch hóa việc sử dụng đất;
Quy định các chế độ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các chế độ, thể lệ ấy;
Giao đất và thu hồi đất;
Đăng ký đất đai, lập và giữ sổ địa chính, thống kê đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý, sử dụng đất đai;
Giải quyết tranh chấp đất đai.
Luật Đất đai 1987 mới chỉ giải quyết mối quan hệ hành chính về đất đai giữa Nhà nước (tư cách là chủ sở hữu) với người sử dụng đất. Do đó, nội dung quản lý nhà nước về đất đai không có những nội dung về đánh giá đất, kinh tế đất, cho thuê đất... Do không thừa nhận đất có giá nên Nhà nước nghiêm cấm chuyển dịch đất đai dưới mọi hình thức. Những quy định này làm cho quan hệ đất đai không được vận động theo hướng tích cực.
1.2.2. Luật Đất đai 1993
Ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/1993. Đây là một trong những luật quan trọng thể hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện Luật Đất đai 1993 là