Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu
và khu vực. Điều này mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với các vấn đề
trong nước, đặc biệt là các vấn đề về chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước để ổn định
nền kinh tế. Một trong những thách thức lớn mà nền kinh tế chúng ta đang phải đối mặt
là hiện tượng đô la hóa, đặc biệt tình trạng này xảy ra càng nhiều khi nước ta gia nhập
WTO. Đô la hóa có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung và phát triển hệ thống
ngân hàng nói riêngđồng thời nó cũng gây ra rủi ro về khả năng thanh khoản và chi trả
gây ra do phá sản cho toàn hệ thống ngân hàng. Do vậy , ảnh hưởng không nhỏ cho
người dân cũng như nền kinh tế. Nó đòi hỏi nhà nước cũng như NHTW phải có những
biện pháp can thiệp kịp thời để can thiệp giúp giảm thiểu những rủi ro cho tình trạng
này.Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Thực trạng Đô la hoá ở Việt Nam trong thời gian
gần đây. Giải pháp hạn chế hiện tượng đô la hóa”
Đây là một đề tài khá khó hơn nữa thời gian làm bài và trình độ của người viết còn
nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi có những thiếu sót nhất định. Sau đây em xin trình
bày một số đánh giáthực trạng đô la hoá đang diễn ra và qua đó nhận thức được những
hạn chế của đô la hoá nhằm đưa ra các giải pháp khắc phục.
26 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5443 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam trong thời gian qua: Giải pháp hạn chế đô la hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
p
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ - LUẬT
----------
BÀI TIỂU LUẬN
Môn: TIỀN TỆ NGÂN HÀNG
THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN QUA. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ ĐÔ LA HÓA
Giảng viên : Nguyễn Thị Hai Hằng
Lớp: k09404A
Thực hiện: Vũ Thị Thu Phượng MSSV: K094040591
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................... 3
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA................. 4
1.1. Khái niệm ........................................................................................................ 4
1.2. Phân loại ......................................................................................................... 4
1.3. Nguyên nhân ............................................................................................... 6
1.4. Tác đ ng c a đô la hóa .................................................................................... 8
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP HẠN CHẾ ............................................................................................ 17
2.1. Th c tr ng đo la hóa Vi t Nam ................................................................... 17
2.2. Gi i pháp h n ch hi n t ng đo la hóa ........................................................ 21
PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 25
3
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu
và khu vực. Điều này mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với các vấn đề
trong nước, đặc biệt là các vấn đề về chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước để ổn định
nền kinh tế. Một trong những thách thức lớn mà nền kinh tế chúng ta đang phải đối mặt
là hiện tượng đô la hóa, đặc biệt tình trạng này xảy ra càng nhiều khi nước ta gia nhập
WTO. Đô la hóa có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung và phát triển hệ thống
ngân hàng nói riêngđồng thời nó cũng gây ra rủi ro về khả năng thanh khoản và chi trả
gây ra do phá sản cho toàn hệ thống ngân hàng. Do vậy, ảnh hưởng không nhỏ cho
người dân cũng như nền kinh tế. Nó đòi hỏi nhà nước cũng như NHTW phải có những
biện pháp can thiệp kịp thời để can thiệp giúp giảm thiểu những rủi ro cho tình trạng
này.Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Thực trạng Đô la hoá ở Việt Nam trong thời gian
gần đây. Giải pháp hạn chế hiện tượng đô la hóa”
Đây là một đề tài khá khó hơn nữa thời gian làm bài và trình độ của người viết còn
nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi có những thiếu sót nhất định. Sau đây em xin trình
bày một số đánh giáthực trạng đô la hoá đang diễn ra và qua đó nhận thức được những
hạn chế của đô la hoá nhằm đưa ra các giải pháp khắc phục.
4
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA
1.1. Khái niệm
Đô la hóa (dollarization) là việc sử dụng một ngoại tệ để thực hiện một số hay tất
cả các chức năng của tiền tệ, quá trình một nước bỏ hoàn toàn đồng nội tệ và thay vào
đó sử dụng đồng tiền của nước khác ổn định hơn làm phương tiện thanh toán. Nói cách
khác, đô la hóa xảy ra khi dân chúng trong một nước sử dụng rộng rãi ngoại tệ, song
song hoặc thay thế cho đồng tiền nội tệ của mình.
1.2. Phân loại
Đô la hoá được phân ra làm 3 loại: đô la hoá không chính thức (unofficial
Dollarization), đô la hoá bán chính thức (semiofficial dollarization), và đô la hoá chính
thức (official dollarization).
Đô la hoá không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong
nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận.Đô la hoá không
chính thức có thể bao gồm các loại sau:
Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài
Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.
Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước
Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.
Đô la hoá bán chính thức là những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng
tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và thậm chí có
5
thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong
việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì một ngân
hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.
Đô la hoá chính thức (hay còn gọi là đô la hoá hoàn toàn) xảy ra khi đồng ngoại tệ
là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được
sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các
khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ
yếu và thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông
thường các nước chỉ áp dụng đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong việc thực
thi các chương trình ổn định kinh tế.Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một
hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước đô la hoá chính
thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp.
Công thức tính
ࢀ ࢚ ࢍ ࢍ ࢚
ࢀ ࢍ ࢎ ࢍ ࢊ ࢚ࢎࢇࢎ ࢚á = ࡲࡰࡹ
Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la
hóa cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối
tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ.Theo đánh giá của IMF năm 1998, 19 nước có mức
độ đô la hoá cao với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2 lớn hơn 30%, bao gồm các nước:
Argentina, Azerbaijian, Belarus, Bolivia, Cambodia, Costa Rica, Croatia, Georgia,
Guinea - Bissau, Laos, Latvia, Mozambique, Nicaragua, Peru, Sao Tome, Principe,
Tajikistan, Turkey và Uruguay. 35 nước có mức độ đô la hoá vừa phải với tỷ lệ tiền
gửi/M2 khoảng 16,4%, bao gồm các nước: Albania, Armenia, Bulgaria, Cộng hoà
6
Czech, Dominica, Honduras, Hungary, Jamaica, Jordan, Lithuania, Macedonia,
Malawi, Mexico, Moldova, Mongolia, Pakistan, Philippines, Poland, Romania, Russia,
Sierra Leone, Cộng hoà Slovak, Trinidad, Tobago, Uganda, Ukraine, Uzbekistan, Việt
Nam, Yemen và Zambia.Theo nghiên cứu của Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ, hiện tại
người nước ngoài nắm giữ từ 55 đến 70% tổng số đô la Mỹ đang lưu hành trên thế giới.
1.3. Nguyên nhân
Theo thống kê, các quốc gia có nền kinh tế đô la hóa chính thức đều là những
quốc gia nhỏ cả về quy mô dân số cũng như diện tích. Đối với những quốc gia này, đô
la hóa chính thức nền kinh tế có thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của các nhà lănh
đạo. Theo họ, việc chấp nhận 1 ngoại tệ mạnh là tiền tệ chính thức góp phần làm cho
nền kinh tế ổn định hơn, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng ở mức cao và họ chấp nhận
đánh đổi chủ quyền về tiền tệ để đạt được sự ổn định này, vậy suy cho cùng mục tiêu là
tăng trưởng kinh tế. Cho nên tình trạng đô la hóa có thể xuất phát từ một số nguyên
nhân sau đây:
Thứ nhất, tỷ lệ lạm phát cao ở Việt Nam khiến sức mua của đồng bản tệ giảm
sút thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có đồng ngoại tệ có
uy tín như USD. Song song với chức năng làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần
đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh
toán hay làm thước đo giá trị.
Thứ hai, hiện tượng đô la hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong
đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao
lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền
mạnh, ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lưu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ
XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới.
7
Thứ ba, khi thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa làm cho quá trình quốc tế
hóa giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào
nền kinh tế và tiền tệ của nước ta nên xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền
tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ.
Thứ tư, tình trạng buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới và trên biển khá phát
triển và sự quản lý lỏng lẻo của chính quyền các cấp. Tình trạng các doanh nghiệp, các
cửa hàng kinh doanh... bán hàng thu bằng ngoại tệ còn tùy tiện và diễn ra phổ biến.
Thứ năm, thu nhập bằng đô la Mỹ trong các tầng lớp dân cư ngày càng được mở
rộng và tăng lên. Đó là thu nhập của những người Việt Nam làm việc cho các công ty
nước ngoài và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam; tiền cho người nước ngoài thuê nhà và
kinh doanh du lịch; khách quốc tế đến và chi tiêu đô la bằng tiền mặt ở Việt Nam;
người nước ngoài sinh sống và làm việc ở Việt Nam tiêu dùng; tiền của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài gửi về; tiền của những người đi xuất khẩu lao động, đi học
tập, hội thảo, làm việc ngắn ngày mang về.
Các nhà kinh tế cho rằng đô la hóa không chính thức gây nhiều tác động tiêu
cực đến điều hành chính sách tỷ giá hối đoái vì đô la hóa có thể làm cho cầu tiền trong
nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ,
làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá. Trong trường hợp có
biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá
và bắt đầu một chu kỳ lạm phát.
Bên cạnh đó, khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay
đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền
này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó
8
khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể
gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng.
1.4. Tác động của đô la hóa
1.4.1. Tác động tiêu cực.
Nói đến Đô la hoá là người ta nói ngay đến những tác động tiêu cực của nó tới nền
kinh tế Quốc dân, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế nền kinh tế đang diễn ra ngày
càng sâu rộng. Mức độ Đô la hóa càng cao thì tác động tiêu cực đến nền kinh tế càng
nghiêm trọng hơn.
Ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, làm giảm việc điều hành
của chính sách tiền tệ.
Các học thuyết kinh tế chỉ ra rằng chính sách tài chính tiền tệ của một quốc gia có mối
quan hệ hữu cơ với nền kinh tế của quốc gia đó. Đó là một trong những chính sách
kinh tế vĩ mô quan trọng nhất, ảnh hưởng đến nhiều chỉ tiêu kinh tế tiêu biểu như lạm
phát, thất nghiệp, tỷ giá hối đoái, lãi suất… Khi cung tiền tăng làm lạm phát tăng. Lạm
phát là một chỉ số rất nhạy cảm, làm cho giá cả tăng lên, gây ra hai hiệu ứng trái ngược
nhau. Đối với các nhà sản xuất trong ngắn hạn, giá tăng sẽ làm tăng lợi nhuận trên một
đơn vị sản phẩm bán ra và nếu các yếu tố khác không đổi thì tổng lợi nhuận của họ sẽ
tăng lên, khuyến khích các nhà đầu tư mở rộng sản xuất, góp phần làm giảm thất
nghiệp. Ngược lại, về phía người tiêu dùng nếu sự tăng giá là đáng kể thì họ sẽ giảm
nhu cầu tiêu dùng, dẫn đến việc lưu thông hàng hóa trở lên đình trệ nhà sản xuất phải
cắt giảm sản lượng, thu hẹp sản xuất, làm thất nghiệp tăng lên. Lạm phát còn làm cho
đồng nội tệ mất giá, có thể làm giảm lòng tin trong dân cư đối với đồng nội tệ và có thể
gây ra một làn sóng chuyển đổi nội tệ sang các ngoại tệ mạnh hoặc các tài sản khác để
9
cất trữ của cải, tạo sức ép tăng tỷ giá hối đoái, từ đó có thể thúc đẩy xuất khẩu vì giá
hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu.
Mặt khác khi lạm phát gia tăng thì ngân hàng cũng phải tăng lãi xuất lên tương
ứng để thu hút tiền gửi vào hệ thống ngân hàng, kiềm chế lạm phát. Như vậy, xác định
và duy trì một tỷ lệ lạm phát phù hợp không hề đơn giản, đòi hỏi những nhà hoạch định
chính sách phải sử dụng kết hợp nhiều chính sách, đặc biệt là chính sách tài chính tiền
tệ một cách linh hoạt và thận trọng. Thông thường Nhà nước phải xác định cái giá phải
trả hoặc sự đánh đổi cho việc giảm căng thẳng của tình trạng lạm phát leo thang.Trong
điều kiện mức độ Đô la hoá cao, việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là
chính sách tài chính tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập, chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến
kinh tế quốc tế, nhất là khi xảy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính tiền tệ. Khi
này mỗi chính sách kinh tế vĩ mô lại phải tính toán đến những yếu tố quốc tế đảm bảo
sự hài hòa giữa đối nội và đối ngoại. Khi tình hình quốc tế biến động thì các chính sách
kinh tế vĩ mô cũng phải lập tức điều chỉnh cho thích ứng. Để giảm bớt tính chất bị
động, các chính phủ thường phải lập một đội ngũ chuyên gia làm nhiệm vụ cập nhật tin
tức thế giới, phân tích và đánh giá những kinh tế chính trị, chính trị, xã hội nhằm dự
báo xu hướng những thay đổi có thể xảy ra.
Đô la hóa còn làm cho đồng nội tệ trở nên nhạy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên
ngoài, nhất là các loại rủi ro tài chính tiền tệ mang tính chu kỳ của nền kinh tế thị
trường trong điều kiện toàn cầu hoá như hiện nay như: rủi ro thanh khoản ngoại tệ, rủi
ro tỷ giá, rủi ro lãi suất, rủi ro rút vốn đầu tư nước ngoài, rủi ro nợ quốc gia... Do đó
những cố gắng của nhà nước nhằm điều chỉnh chính sách tiền tệ sẽ tác động đến tổng
cầu của nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.
Khi này, nền kinh tế tồn tại không chỉ duy nhất đồng nội tệ mà còn nhiều ngoại tệ khác
cho nên khi nhà nước giảm lãi suất tiền gửi nhằm giảm tiết kiệm, tăng tiêu dùng trong
dân cư. Nhưng Chính phủ có thể không đạt được mục tiêu một cách hiệu quả vì trong
10
tình hình đó người dân có thể không tiêu dùng mà chuyển sang tiết kiệm bằng ngoại tệ,
nghĩa là Đô la hóa tăng.
Gần đây, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới lại đang bị xáo trộn
mạnh bởi sự tăng giá dầu mỏ tăng lên cao do khủng hoảng chính trị ở Libia, Bờ Biển
Ngà và động đất sóng thần tại Nhật Bản làm giá cả ở Việt Nam tăng nhanh, lạm phát
tăng
Đô la hóa ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá
của Nhà nước. Nó làm cho cầu tiền cả nội tệ và ngoại tệ không ổn định, người dân có
nhiều sự lựa chọn hơn cho tài sản của mình. Nếu tình hình trong nước không thuận lợi,
lạm phát cao hay chỉ đơn giản là niềm tin vào sự tăng giá của USD trong tương lai sẽ
khuyến khích người dân đi mua ngoại tệ để cất trữ của cải hoặc đầu cơ ngoại tệ, làm
tăng cầu USD, gây sức ép tăng tỷ giá. Ngược lại nếu thấy những yếu tố bất lợi cho việc
nắm giữ đô la như đô la có xu hướng giảm giá…thì người dân có thể lập tức bán ra ồ ạt
đô la, gây sức ép giảm giá USD, làm tỷ giá giảm. Sự biến động thất thường của tỷ giá
gây ra nhiều bất lợi cho đất nước.
Nếu tỷ giá quá cao, nghĩa là đồng tiền Việt Nam có giá trị quá nhỏ bé so với các
đồng tiền khác, điều này có thể làm giảm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế vì
mức thu nhập tính theo đô la cách xa các quốc gia khác, hoặc tỷ giá quá thấp sẽ làm
giảm khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam, do giá hàng xuất khẩu cao
hơn. Hơn thế nữa, khi tỷ giá luôn luôn biến động sẽ làm cho hoạt động kinh doanh liên
quan đến ngoại tệ chịu nhiều rủi ro hơn, khó dự đoán kết quả tương lai, làm giảm động
lực kinh doanh. Để hạn chế sự biến động thất thường của tỷ giá trên thị trường tự do
mỗi Chính phủ thường hoạch định một chính sách tỷ giá hối đoái riêng.
11
Hiện nay, Nhà nước Việt Nam áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết. Đó là chế
độ tỷ giá mà tỷ giá được xác định theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại tệ,
nhưng khi tỷ giá trên thị trường tự do biến động vượt quá biên độ cho phép mà Chính
phủ đã xây dựng lên thì Chính phủ sẽ tiến hành mua vào hoặc bán ra lượng ngoại tệ dự
trữ ở ngân hàng Trung ương để đưa tỷ giá trên thị trường trở lại vào biên độ cho phép.
Nhưng vai trò điều tiết tỷ giá của Nhà nước nhiều khi đạt hiệu quả không cao đối với
những nước Đô la hóa vì lượng ngoại tệ dự trữ của Nhà nước còn quá ít so với lượng
ngoại tệ trên thị trường tự do, không đủ khả năng tác động lên giá cả trên thị trường. Ở
các nước Đô la hóa không chính như Việt Nam, nhu cầu về nội tệ không ổn định.
Trong trường hợp biến động xảy ra, mọi người bất ngờ đổ xô đi mua ngoại tệ, tạo sức
ép làm tăng tỷ giá, đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Nếu tình trạng
này kéo dài không kiềm chế được thì có thể đẩy lạm phát lên rất cao, làm tê liệt các
hoạt động kinh tế. Khi người dân nắm giữ một lượng lớn ngoại tệ, những biến động về
lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự dịch chuyển lớn từ đồng tiền này
sang đồng tiền khác.
Chính sách tiền tệ phù thuộc nặng nề vào Mỹ
Khi một quốc gia bị Đô la hóa ở mức độ cao, đặc biệt là Đô la hoá bằng USD thì chính
sách tài chính tiền tệ còn chịu sự phụ thuộc vào các chính sách của Mỹ. Sự phụ thuộc
càng lớn khi mức độ Đô la hóa càng cao. Bởi vì trong số ngoại tệ có mặt trong tổng
phương tiện thanh toán trên đất nước thì USD luôn chiếm một tỷ lệ chủ yếu. Thực tế
cho thấy, quá trình hoạch định chính sách, nhất là chính sách tiền tệ của Việt Nam cũng
như nhiều quốc gia khác luôn luôn phải dựa trên cơ sở cập nhật và nghiên cứu kỹ
lưỡng các chính sách, đặc biệt là chính sách tài chính tiền tệ, chính sách tỷ giá của Mỹ.
Quá trình thực thi các chính sách cũng không được tách rời những biến động trên nước
Mỹ để có những điều chỉnh kịp thời . Ví dụ như gần đây khi Mỹ liên tục tăng lãi suất
12
USD, các ngân hàng ở Việt nam cũng ngay lập tức tăng lãi suất tiền gửi USD theo để
cạnh tranh trong hoạt động thu hút tiền gửi USD. Các tin tức về tình hình kinh tế, chính
trị ở Mỹ cũng luôn luôn được cập nhật, phân tích, đánh giá nhằm dự báo kịp thời, chính
xác những biến động, từ đó kịp thời điều chỉnh trong chính sách.
Ở những nước Đô la hóa chính thức sự phụ thuộc vào Mỹ là rất lớn.Vì USD là đồng
tiền chính thức được sử dụng ở các quốc gia này, nên chính sách tiền tệ hầu như phụ
thuộc vào Mỹ từ cung, cầu tiền đến lãi suất,vai trò của nhà nước rất mờ nhạt trong lĩnh
vực này thậm chí là hoàn toàn bị động.
Mặc dù Mỹ là một quốc gia phát triển hàng đầu thế giới, các chính sách của Mỹ được
nghiên cứu rất chặt chẽ, khoa học, độ chính xác và hiệu quả điều tiết cao. Thế nhưng
chúng là giành cho nước Mỹ, phù hợp với nước Mỹ, trong khi đó hoàn cảnh của Việt
Nam cũng như các quốc gia đang phát triển khác thì không tương thích với Mỹ, thậm
chí còn đối lập ở nhiều khía cạnh, lạm phát ở Mỹ rất thấp chỉ từ 1 – 2%, còn ở Việt
Nam thường duy trì ở mức hai con số; Thất nghiệp ở Mỹ cũng thấp hơn nhiều Việt
Nam; Tiềm lực tài chính; Năng lực quản lý thì vượt xa Việt Nam… Cho nên chính
sách Tài chính tiền tệ không thể giống nhau, việc chịu ảnh hưởng hay phụ thuộc hoàn
toàn vào các chính sách của Mỹ có khi lại không mang lại hiệu quả tối ưu, thậm chí trái
ngược.
Đô la hóa chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng Trung ương trong
vai trò là người cho vay cuối cùng của hệ thống ngân hàng thương mại.
Còn ở những nước Đô la hóa không chính thức thì Ngân hàng Trung ương cũng không
có chức năng cho vay cuối cùng về ngoại tệ. Khi sự bảo lãnh ngầm của nhà nước đối
với các khoản vay vẫn còn thể hiện thông qua chức năng người cho vay cuối cùng của
Ngân hàng Trung ương thì người dân còn tin tưởng mà gửi tiền vào các ngân hàng, nếu
13
sự bảo lãnh này mất đi thì sẽ làm giảm lòng tin của người dân với ngân hàng. Vì vậy, ở
các quốc gia Đô la hóa, nhất là Đô la hóa chính thức, khu vực ngân hàng thường tiềm
ẩn nhiều nguy cơ bất ổn hơn. Mỗi khi có biến động xấu xảy ra thì nguy cơ phá sản và
đóng cửa là rất lớn do khả năng rút tiền ồ ạt của những người gửi rất cao, các thông tin
trở lên rất nhạy cảm.
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay hệ thống ngân hàng còn yếu kém trong việc thu hút
tiền gửi ngoại tệ nên lượng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng không nhiều, không đủ
để đáp ứng nhu cầu của các chủ thể kinh tế, hơn nữa thủ tục cho vay còn rườm rà, gây
nhiều khó khăn cho doanh nghiệp như: đòi hỏi tài sản thế c