Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập và phát triển. Sự tồn tại của Daonh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế là một yếu tố không thể thiếu để cùng nền kinh tế ngày càng tăng trưởng, phát triển bền vững. Các Doanh nghiệp vừa và nhỏ với đặc điểm linh hoạt, thích ứng nhanh, dễ dàng thâm nhập mọi ngĩ ngách của thị trường, có vai trò đáng kể trong việc làm cho nền kinh tế năng động hơn, thu hút vốn và tạo them nhiều việc làm với chi phí thấp.
Tới nay, theo kết quả điều tra thì các Daonh nghi vừa và nhỏ đã tạo ra tổng sản phẩm chiếm gần 80% GDP, chiếm 79% lực lượng lao động của cả nước, góp 70% tổng kim nghạch xuất khẩu . Kết quả này có được là do nhà nước đã nhận thức rõ vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Mặc dù vậy trên con đường phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là vấn đề huy động. Vậy thực trạng huy động vốn và các giải pháp đưa ra nhằm khắc phục những vấn đề tồn đọng trong việc thu hút vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay là như thế nào?
Để giải đáp câu hỏi đó, dưới sự hướng dẫn của cô giáo cùng với quá trình tìm hiểu qua sác báo và mạng, chúng em đã làm bài thảo luận với chủ đề: “ Thực trạng huy động vốn của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay và Giải pháp”
53 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4185 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng huy động vốn của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thành viên nhóm 2:
-Nguyễn Thị Thu Hà -Phạm Thị Ngân
-Bùi Thị Bích -Thái Thị Thủy
-Phạm Thị Vân -Lê Thu Hương
-Trương Thị Kiều Oanh -Khiếu Viết Trinh
-Nguyễn Thị Thúy
Lời mở đầu
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập và phát triển. Sự tồn tại của Daonh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế là một yếu tố không thể thiếu để cùng nền kinh tế ngày càng tăng trưởng, phát triển bền vững. Các Doanh nghiệp vừa và nhỏ với đặc điểm linh hoạt, thích ứng nhanh, dễ dàng thâm nhập mọi ngĩ ngách của thị trường, có vai trò đáng kể trong việc làm cho nền kinh tế năng động hơn, thu hút vốn và tạo them nhiều việc làm với chi phí thấp.
Tới nay, theo kết quả điều tra thì các Daonh nghi vừa và nhỏ đã tạo ra tổng sản phẩm chiếm gần 80% GDP, chiếm 79% lực lượng lao động của cả nước, góp 70% tổng kim nghạch xuất khẩu…. Kết quả này có được là do nhà nước đã nhận thức rõ vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Mặc dù vậy trên con đường phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là vấn đề huy động. Vậy thực trạng huy động vốn và các giải pháp đưa ra nhằm khắc phục những vấn đề tồn đọng trong việc thu hút vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay là như thế nào?
Để giải đáp câu hỏi đó, dưới sự hướng dẫn của cô giáo cùng với quá trình tìm hiểu qua sác báo và mạng, chúng em đã làm bài thảo luận với chủ đề: “ Thực trạng huy động vốn của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay và Giải pháp”
Bài thảo luận của chúng em được chia thành 3 phần chính:
Phần I. Tổng quan chung về Doanh nghiệp vừa và nhỏ; nguồn vốn
Phần II. Thực trạng huy động vốn của các Daonh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay
Phần III. Nguyên nhân và giải pháp
Bài thảo luận chúng em còn nhiều thiếu xót mong cô và các bạn đóng góp để bài thảo luận được hoần chỉnh hơn
Chúng em xin chân thành cảm ơn
Tổng quan chung
1.Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế:
Khái niệm Doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
1.2.Tiêu chí đánh giá doanh nghiệp vừa và nhỏ .
Các tiêu chí để phân loại doanh nghiệp có hai nhóm :
-Tiêu chí định tính:dựa trên những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp như chuyên môn hóa thấp ,số đầu mối quản lý ít ,mức độ phức tập của quản lý thấp…các tiêu chí này phản ánh đúng bản chất vấn đề song khó xác định .
-Tiêu chí định lượng: số lao động ,giá trị tài sản hay vốn ,doanh thu lợi nhuận …cụ thể như sau:
(i) Vốn Điều lệ không quá 10 tỷ VND ghi trong giấy phép hoạt động trước năm 2009 hoặc giấy phép hoạt động lần đầu cấp từ năm 2009;
(ii) Số lao động không quá 300 người xác định theo bình quân trong quý IV/2008 (không kể hợp đồng ngắn hạn) hoặc theo số lượng được trả lương trong tháng đầu tiên (đủ 30 ngày) có doanh thu đối với doanh nghiệp thành lập mới từ ngày 01/10/2008.
2.Nguồn vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
2.1.Khái niệm về vốn:
Vốn nói chung được hiểu là một khoản tiền ban đầu hay số tài sản tích lũy thuộc sở hữu cá nhân hay một đơn vị, nó khác với khoản lợi nhuận hay thu nhập phát sinh từ đó. Như vậy theo nghĩa rộng vốn là những tài sản tích lũy được đóng vai trò chủ yếu vào quá trình sản xuất. Theo quan niệm đó thì cả tài nguyên, đất đai, lao động, tri thức, trình đọ tay nghề… cũng được coi là vốn. Theo nghĩa hẹp, vốn là một trong các nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất bao gồm: tài nguyên thiên nhiên, lao động, tư bản, công nghệ quản lý
Tuy nhiên, dưới góc độ doanh nghiệp, vốn là điều kiện không thể thiếu để thành lập doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh là số tiền đầu tư vào toàn bộ tài sản dùng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm của vốn kinh doanh là phải đảm bảo đủ một số lượng nhất định và sử dụng vào mục đích kinh doanh. Vốn có vai trò nhất định đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để hình thành và phát triển sản xuất kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải co vốn để mua nguyên vật liệu, trả lương và thanh toán các chi phí khác. Đồng thời khi doanh nghiệp đã tiến hành sản xuất ổn định, doanh nghiệp cần mở rộng quy mô sản xuất và khai thác sản phẩm mới. Do đó, yêu cầu của doanh nghiệp là phải có vốn để tiếp tục đáp ứng sự gia tăng này
Các loại vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nguồn vốn chủ sở hữu
Khi mới thành lập ban đầu, doanh nghiệp cần số vốn nhất định để tạo lập doanh nghiệp; số vốn ban đầu này dùng để thuê nhà xưởng, máy móc, thiết bị, thuê nhân công, thanh toán cho các nhà cung cấp, mua nguyên vật liệu cho sản xuất, tiền quảng cáo và các chi phí liên quan đến hoạt độngkinh doanh ban đầu. Số vốn này chính là vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn thuộc sỡ hữu của chủ doanh nghiệp không có nghĩa vụ phải hoàn trả cho người khác. Nguồn vốn này tạo điều kiện cho chủ doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc thực hiện các quyết định tài chính của mình. Đối với từng loại hình doanh nghiệp khác nhau, nguồn vốn chủ sở hữu cũng được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Ví dụ: đối với công ty cổ phần thì vốn ban đầu là do các cổ đông đóng góp dưới hình thức mua cổ phần; đối với công ty tư nhân thì vốn ban đầu là phần tích lũy của cá nhân chủ doanh nghiệp bỏ ra.… tuy nhiên trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường có xu hướng gia tăng nguồn vốn chủ sở hữu theo những cách thức khác nhau như tự bổ sung từ lợi nhuận để lại, các quỹ được hình thành từ nguồn lợi nhuận và kinh phí. Tuy nhiên, nguồn vốn chủ sở hữu thường bị hạn chế về quy mô nên chưa đáp ứng mọi nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh.
2.2Nguồn vốn chính thức:
Khấu hao tài sản cố định
Tài sản cố định là những tư liệu lao động tham gia nhiều vào quá trình sản xuất. Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định bị hao mòn dần và chuyển dần giá trị của nó vào giá thành sản phẩm. Hao mòn tài sản cố định là một quá trình mang tính khách quan, phụ thuộc vào nhiều nhân tố như chất lượng của bản than tài sản cố định, các yếu tố tự nhiên, cường độ sử dụng tài sản cố định… Trong quá trình sử dụng tài sản cố định, doanh nghiệp phải xác định mức độ hao mòn của chúng để chuyển dần giá trị hao mòn vào sản phẩm được sản xuất ra từ các tài sản cố định đó. Việc xác định mức khấu hao cụ thể phụ thuộc vào thực tiễn sử dụng tài sản cố định cũng như ý muốn chủ quan của con người. Đối với các doanh nghiệp nhà nước trong một chừng mực nhất định, quá trình xác định khấu hao chịu ảnh hưởng ý đò của nhà nước thông qua các quy định, chính sách cụ thể của cơ quan tài chính trong từng thời kì. Các doanh nghiệp khác có thể tự lựu chọn thời hạn sử dụng và phương pháp tính khấu hao cụ thể, thích hợp. Trong chính sách tài chính cụ thể ở từng thời kỳ, doanh nghiệp có thể lựa chọn và điều chỉnh khấu hao tài sản cố định và coi đây như một công cụ điều chỉnh nguồn cung ứng vốn bên trong của mình. Doanh nghiệp cũng cần chú ý rằng: điều chỉnh tăng khấu hao tài sản cố định sẽ dẫn đến tăng chi phí kinh doanh khấu hao tài sản cố định trong giá thành sản phẩm, vì vây, phương pháp này luôn bị khống chế bởi giá thành sản phẩm.
Tích lũy tái đầu tư
Tích lũy tái đầu tư luôn được các doanh nghiệp coi là nguồn tự cung ứng tài chính quan trọng vì nó có các ưu điểm cơ bản sau:
Doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động
Giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng
Giúp cho doanh nghiệp tăng tiềm lực tài chính nhờ giảm tỷ lệ nợ/vốn
Tăng thêm niềm tin đối với doanh nghiệp từ phía các nhà cung ứng tài chính
Quy mô tự cung ứng vốn từ tích lũy tái đầu tư tùy thuộc vào hai nhân tố chủ yếu là tổng số lợi nhuận thu được trong thời kỳ kinh doanh cụ thể và chính sách phân phối lợ nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Tổng số lợi nhuận thu được trong từng thời kỳ phụ thuộc vào quy mô kinh doanh, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp đó trong từng thời kỳ đó. Chính sách phân phối lợi nhuận cũng khác nhau tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp khác nhau.
Điều chỉnh cơ cấu tài sản
Điều chỉnh cơ cấu tài sản không làm tăng tổng số vốn sản xuất – kinh doanh của doanh nghệp nhưng lại có tác động rất lớn cho việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết. Do môi trường kinh doanh biến động, nhiệm vụ kinh doanh thay đổi nên trong kinh doanh luôn diễn ra hiện tượng thừa loại tài sản này nhưng thiếu loại tài sản khác. Điều chỉnh cơ cấu tài sản là việc kịp thời bán các tài sản cố định dư thừa, không (chưa) sử dụng đến; mặt khác, phải trên cơ sở thường xuyên kiểm tra, tính toán và xác định lại mức dự trữ tài sản lưu động trên cơ sở ứng dụng mô hình dự trữ tối ưu nhằm giảm lương lưu kho tài sản lưu động không cần thiết, đảm bảo lương lưu kho mỗi loại tài sản hợp lý.
Vay vốn của các ngân hàng thương mại
Vay vốn từ ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn từ các ngân hàng thương mại với các kỳ hạn khác nhau như ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đây là mối quan hệ tín dụng giữa một bên cho vay và một bên đi vay. Với hình thức vay vốn từ ngân hàng thương mại doanh nghiệp có thể huy động được một lương vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các ngân hàng cùng tham gia thẩm định các dự án đầu tư lớn. Bên cạnh đó, để thực hiện được các hình thức vay vốn từ các ngân hàng thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ tục ngặt nghèo. Trong quá trình sử dụng vốn, doanh nghiệp phải tính toán trả nợ ngân hàng theo đúng tiến độ kế hoạch. Mặt khác, khi doanh nghiệp vay vốn từ các ngân hàng thương mại đòi hỏi kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian cho vay, ví dụ:
Ngân hàng cho vay có thể khống chế giá trị tái sản cố định để tránh “ngâm”, vốn tránh rủi ro.
Doanh nghiệp sẽ không được vay thêm dài hạn nều không có sự đồng ý cảu ngân hàng cho vay.
Doanh nghiệp không được thế chấp tài sản nếu không có sự đồng ý của ngân hàng cho vay.
Ngân hàng cho vay có thể áp đặt cơ chế kiểm soát hoạt động đầu tư để tránh doanh nghiệp sử dụng vốn bừa bãi.
Ngân hàng cho vay có thể đòi hỏi can thiệp vào sự thay đổi ban lãnh đạo của doanh nghiệp.
Tín dụng thuê mua
Trong cơ chế kinh tế thị trường, phương thức tín dụng thuê mua được thực hiện giữa một doanh nghiệp có cầu sử dụng máy móc thiết bị với một doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua diễn ra khá phổ biến. Sở dĩ hình thức thuê mua diễn ra khá phổ biến là ví nó đáp ứng được nhu cầu cơ bản của bên có cầu và bên đáp ứng cầu. Hình thức tín dụng thuê mua có ưu điểm cơ bản là giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, khi nào doanh nghiệp có cầu cụ thể về máy móc thiết bị mới đặt vấn đề thuê mua và chỉ ký hợp đồng thuê mua trong một khoảng thời gian sử dụng nhất định. Doanh nghiệp không chỉ nhận được máy móc thiết bị mà còn nhận được tư vấn đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cần thiết từ doanh nghiệp thực hiện chức năng thu mua. Doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị có thể tránh được những tổn thất do mua máy móc thiết bị không đúng yêu cầu hoặc do mua nhầm. Doanh nghiệp sử dụng có được máy móc thiết bị cần thiết mà không cần phải đầu tư một lương vốn lớn. Mặt khác, doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị có thể giảm được tỉ lệ nợ/vốn vì tránh phải vay nợ ngân hàng thương mại. Trong quá trình sử dụng máy móc thiết bị, doanh nghiệp sử dụng có thể thỏa thuận tái thuê với doanh nghiệp có chức năng thu mua, tức là doanh nghiệp sử dụng bán một phần tài sản cho doanh nghiệp thuê mua rồi lại thuê lại để tiếp tục sử dụng tài sản thiết bị đó. Với phương thức thuê mua, doanh nghiệp sử dụng có thể nhanh chóng đổi mới tài sản cố định, hiện đại hóa dây chuyền sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Hạn chế cơ bản của tín dụng thuê mua đối với doanh nghiệp có cầu sử dụng máy móc thiết bị là chi phí kinh doanh sử dụng vốn cao và hợp đồng tương đối phức tạp.
Cung ứng vốn từ ngân sách nhà nước
Với hình thức này doanh nghiệp sẽ nhận được lượng vốn xác định từ nhà nước cấp. Thông thường, hình thức này không đòi hỏi các điều kiện ngặt nghèo như các hình thức huy động vốn khác. Tuy nhiên, càng ngày hình thức cụng ứng vốn từ Ngân sách nhà nước đối với các doanh nghiệp bị thu hẹp cả về quy mô và phạm vi được cấp vốn. Hiện nay, đối tượng được cung ứng vốn theo hình thức này thường phải là các doanh nghiệp nhà nước, được nhà nước xác định duy trì để đóng vai trò công cụ điều tiết kinh tế, các dự án đầu tư ở các lĩnh vực sản xuất hàng hóa công cộng, hoạt động công ích mà tư nhân không muốn hoặc không có khả năng đầu tư, các dự án lớn có tầm quan trọng đặc biệt mà Nhà nước làm chủ dự án. Vì vậy, với hầu hết các DNVVN đây là nguồn vốn đặt quá tầm với họ. DNVVN sẽ không trông đợi vào nguồn cung ứng vốn này.
Quỹ hỗ trợ phát triển
Quỹ hỗ trợ phát triển là một hình thức tín dụng nhà nước nhằm hỗ trợ vốn cho các dự án đầu tư của các doanh nghiệp trong nước. Quỹ này hoạt động dựa trên nguồn vốn do nhà nước cấp hàng năm và các nguồn vay, viện trợ của các tổ chức và Chính phủ quốc tế. Hiện nay, sau khi ra đời các quy định mới của chính phủ thù việc vay vốn từ quỹ trở nên dễ dàng hơn rất nhều, tỉ lệ vốn vay lớn hơn, lãi suất tiền vay thấp và điều kiện thế chấp đơn giản hơn. Đây là một nguồn tín dụng lớn với chi phí khá thấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường.
Nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp FDI
Trong cơ chế kinh tế mở, từ khi có luật đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước còn có thể được cụng ứng vốn từ việc đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài. Với nguồn vốn FDI, doanh nghiệp không chỉ nhận được vốn mà còn được chuyển giao về khoa hoc – kỹ thuật cugx như phương thức quản trị tiên tiến. hơn nữa, doanh nghiệp cũng được chia sẻ thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, huy động vốn bằng nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp doanh nghiệp sẽ phải chịu sự kiểm soát, điều hành của doanh nghiệp (tổ chức cấp vốn). Mức độ kiểm soát của doanh nghiệp điều hành này phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của họ. Mặt khác, một khó khăn mà các doanh nghiệp trong nước vấp phải là doanh nghiệp khó tìm đối tác thích hợp nhằm phát huy ưu thế mỗi bên. Vấn đề giữ quan hệ hợp tác dài bao lâu cũng là một vấn đề doanh nghiệp cần cân nhắc một cách thận trọng.
Nguồn vốn viện trợ phát triển ODA
ODA là nguồn vốn hỗ trợ phát triển của các nước phát triển với các nước kém phát triển và các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Đối tác mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn này là các chương trình hợp tác của Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức quốc tế khác. Hình thức cấp vốn ODA có thể là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi về lãi suất hoặc thời hạn thanh toán. Nếu các doanh nghiệp được vay từ nguồn vốn ODA có thể chịu các mức lãi suất thường trong khoảng 1% - 1.5%/năm, phí ngân hàng thường là 0.2 – 0.3%/năm trong thời hạn có thể từ 10 – 20 năm và có thể gia hạn thêm. Hình thức huy động vốn từ vốn ODA có chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp. Tuy nhiên, để nhận được nguồn vốn này các doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện rất chặt chẽ đồng thời doanh nghiệp phải có trình độ quản lý dự án cũng như trình độ phối hợp với các cơ quan Chính phủ và chuyên gia nước ngoài. Hiện nay, với hầu hết doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng lực tài chính, năng lực quản lý còn nhiều hạn chế nên việc tiếp cận với nguồn vốn này là vô cùng khó khăn. Nguồn vốn này chủ yếu dành cho các doanh nghiệp lớn của nhà nước hoặc các dự án trọng điểm phục vụ cho việc paths triển kinh tế xã hội của cả nước.
Gọi vốn qua phát hành cổ phiếu
Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu là hình thức doanh nghiệp được cung ứng vốn trực tiếp từ thị trường chứng khoán. Khi có cầu về vốn và lựa chọn hình thức này, doanh nghiệp tính toán và phát hành cổ phiếu bán trên thị trường chứng khoán. Hình thức cung ứng vốn này có đặc trưng cơ bản là tăng vốn mà không làm tăng nợ của doanh nghiệp bởi những người sở hữu cổ phiếu thành cổ đông của doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng được khai thác nguồn vốn này mà chỉ có những doanh nghiệp được phép phát hành cổ phiếu như công ty cổ phần, các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn. Như vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp khó khăn trong việc khai thác nguồn vốn này, doanh nghiệp phải có quy mô đủ lớn để có thể hứu hẹn một mức lợi nhuận cao trong tương lại thì mới có thể bán được cổ phiếu phát hành trên thị trường.
Vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn
Hình thức vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng: doanh nghiệp phát hành lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường là có kỳ hạn xác định và bán cho công chúng. Khác với hình thức phát hành cổ phiếu, hình thức huy động vốn từ phát hành trái phiếu mang đặc trưng rất cơ bản là tăng vốn gắn với tăng nợ của doanh nghiệp. Những ưu điểm cơ bản của hình thức vay vốn bằng phát hành trái phiếu là: có thể huy động được một lượng vốn lớn cần thiết, chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt chẽ như vay ngân hàng và doanh nghiệp có thể lựu chọn loại trái phiếu phù hợp với yêu cầu cảu mình. Tuy nhiên, hình thức huy động vốn bằng trái phiếu cũng có những nhược điểm cảu nó. Hình thức này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm chắc các kỹ thuật tài chính để tránh nợ đến hạn mà vẫn thu được lợi nhuận, đặc biệt khi kinh tế suy thoái, lạm phát cao. Chi phí kinh doanh phát hành trái phiếu khá cao vì daonh nghiệp cần có sự trợ giúp của một hoặc một số ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp phải tính toán thỏa mãm điều kiện: tài sản cố định phải nhỏ hơn tổng số vốn và nợ dài hạn của doanh nghiệp. Mặt khác, không phải mọi doanh nghiệp mà chỉ những doanh nghiệp thỏa mãn điều kiện theo luật định thì mới được phép phát hành trái phiếu. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc tiếp cận và huy động vốn từ nguồn này cũng là một thách thức rất khó khăn mà không phải doanh nghiệp vừa và nhỏ nào cũng làm được.
Vốn liên doanh, liên kết
Với phương thức này, doanh nghiệp lien doanh, lien kết với một (một số) doanh nghiệp khác nhằm tạo ra nguồn vốn cho hoạt động, dự án lien doanh nào đó. Các bên liên doanh ký hợp đồng lien doanh với các thỏa thuận cụ thể về phương thức hoạt động, quyền lợi và nghĩa vụ của mối bên có giá trị trong một khoảng thời gian nào đó. Khi hết hạn hợp đồng thì lien doanh hết hiệu lực. Với phương thức lien doanh, lien kết doanh nghiệp có thể có được một nguồn vốn cần thiết cho một hoặc một số hoạt động mà không làm tăng nợ. Vì vậy, nhiều nhà quản trị cho rằng phương thức này là phương thức cung ứng vốn nội bộ. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp liên doanh có thể cùng chia sẻ rủi ro. Bên cạnh đó, phương thức lien doanh lien kết vẫn còn một số hạn chế nhất định: huy động vốn theo phương thức này tất sẽ dẫn đến các bên lien doanh cùng tham gia chia sẻ lợi nhuận thu được. Trong quá trình ra quyết định kinh doanh, khó có thể có được sự nhất trí do các bên lien doanh khác nhau về quyền lợi và nghĩa vụ.
2.3Nguồn vốn phi chính thức:
Trong hoạt động kinh doanh, do đặc điểm quá trình cung ứng hàng hóa và thanh toán lúc nào cũng diễn ra đồng thời nên tín dụng thương mại xuất hiện và tồn tại như một tất yếu khách quan. Thực chất luôn diễn ra đồng thời quá trình doanh nghiệp nợ khách hàng và chiếm dụng tiền của khách hàng. Nếu số tiền doanh nghiệp chiếm dụng được của khách hàng lớn hơn số tiền mà doanh nghiệp bị tín dụng thì số tiền dư ra sẽ mang bản chất tín dụng thương mại. Dưới đây là các hình thức tín dụng thương mại chủ yếu đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: