Hòa chung với xu thế toàn cầu hóa, sau nhiều nỗ lực, đến cuối năm 2006 Việt Nam đã được kết nạp là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Sự ra nhập đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng, giao lưu buôn bán giữa nước ta và các nước trên thế giới tăng trưởng không ngừng, kim ngạch xuất nhập khẩu liên tiếp tăng lên qua từng năm. Với 3260km đường bờ biển, lại nằm ở vị trí trung tâm của Đông Nam Á, vì vậy vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đã trở thành phương thức vận chuyển chủ yếu trong hoạt động xuất nhập khẩu. Theo báo cáo của bộ giao thông vận tải năm 2003 thì hàng năm có khoảng 90% khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu được vận chuyển theo phương thức này, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nên kinh tế nước ta.
Như bất kì phương thức vận tải nào khác, vận tải bằng đường biển cũng không thể nào tránh khỏi những rủi ro bất ngờ, gây nên tổn thất lớn đối với các chủ hàng, đến nền kinh tế quốc gia. Đó là lí do mà nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã ra đời từ rất sớm, sự ra đời của nghiệp vụ này nhằm giúp các chủ hàng đảm bảo được sự ổn định về mặt tài chính, dẫn đến ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã phát triển rất mạnh trên thế giới, tuy nhiên khi triển khai trong nước vẫn còn gặp khó khăn. Tỷ trọng hàng nhập khẩu được bảo hiểm bởi các công ty bảo hiểm trong nước chỉ chiếm 25%, và hàng xuất khẩu chỉ chiếm 8%. Đây quả là những con số còn khá khiêm tốn.
Xuất phát từ vấn đề đó, sau thời gian thực tập tại Công ty Bảo hiểm Toàn Cầu (GIC), em đã chọn đề tài : “Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Toàn Cầu” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Mục đích của đề tài là nghiên cứu, phân tích đánh giá việc thực hiện bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Toàn Cầu trong thời gian qua, từ đó rút ra kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện nghiệp vụ này trong thời gian tới đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các chủ hàng khi tham gia bảo hiểm và góp phần vào sự phát triển chung của công ty.
Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương :
Chương 1: lý luận chung về bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Chương 2: thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở công ty bảo hiểm Toàn Cầu.
Chương 3: kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở công ty bảo hiểm toàn cầu.
62 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 3745 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty bảo hiểm Toàn Cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM HÀNG HÓA XUẤTNHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN 3
1.1.SỰ CẦN THIẾT CỦA BẢO HIỂM HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỆN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN 3
1.1.1Vai trò xuất nhập khẩu hàng hóa 3
1.1.2Vai trò và đặc điểm vận tải bằng đường biển 3
1.1.2.1Vai trò 3
1.1.2.2Đặc điểm 4
1.1.3 Sự cần thiết của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 5
1.2. BẢO HIỂM HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN 7
1.2.1 Rủi ro và tổn thất được bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 7
1.2.1.1 Các rủi ro 7
1.2.1.2 Các tổn thất 8
1.2.2 Các điều kiện bảo hiểm 12
1.2.2.2 Theo Bộ Tài Chính ban hành ngày 9/8/1990 14
1.2.3 Nội dung bảo hiểm 15
1.2.3.1 Đối tượng bảo hiểm 15
1.2.3.2. Hợp đồng bảo hiểm 16
1.2.3.3 Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm. 18
1.2.4. Giám định và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 20
1.2.4.1 Giám định tổn thất 20
1.2.4.2. Bồi thường tổn thất 21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM TOÀN CẦU 25
2.1GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY BẢO HIỂM TOÀN CẦU 25
2.1.1Giới thiệu chung 25
2.1.2Kết quả hoạt động kinh doanh của GIC 29
2.2Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại GIC. 30
2.2.1 Công tác khai thác bảo hiểm 30
2.2.2Công tác giám định và bồi thường tổn thất tại GIC 36
2.2.2.1Nhận yêu cầu giám định 36
2.2.2.2Tiến hành thực hiệm giám định 37
2.2.2.3Lập biên bản giám định 39
2.2.2.4Kết quả công tác giám định tổn thất BHHHXNK vận chuyển bằng đường biển tại GIC năm 2007 - 2008 40
2.2.3Công tác giải quyết khiếu nại bồi thường tổn thất đối với bảo hiểm hh xnk vận chuyển bằng đường biển tại GIC 41
2.2.3.1Giải quyết khiếu nại bồi thường 41
2.2.3.2Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại bồi thường 43
2.2.3.3Xét số tiền bồi thường 44
2.2.3.4Thanh toán bồi thường tổn thất. 44
2.2.3.5Công việc sau bồi thường 44
2.2.3.6Kết quả và hiệu quả giải quyết bồi thường tổn thất BHHHXNK vận chuyển bằng đường biển tại GIC năm 2007- 2008 45
2.2.4Đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại GIC năm 2007- 2008 45
CHƯƠNG III: NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM TOÀN CẦU 49
3.1NHỮNG THUẬN LỢI VÀ NHỮNG MẶT CÒN HẠN CHẾ 49
3.1.1Những thuận lợi 49
3.1.2Những mặt còn hạn chế 50
3.2. GIẢI PHÁP 52
3.2.2 Với công tác kinh doanh: 54
3.2.3Với công tác giám định 55
3.2.4Với công tác bồi thường 55
3.2.5Công tác nhân sự 56
3.3KIẾN NGHỊ 57
3.3.1Đối với nhà nước và các cơ quan chức năng 57
3.3.2Đối với hiệp hội bảo hiểm Việt Nam 59
KẾT LUẬN 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO 61
LỜI MỞ ĐẦU
Hòa chung với xu thế toàn cầu hóa, sau nhiều nỗ lực, đến cuối năm 2006 Việt Nam đã được kết nạp là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Sự ra nhập đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng, giao lưu buôn bán giữa nước ta và các nước trên thế giới tăng trưởng không ngừng, kim ngạch xuất nhập khẩu liên tiếp tăng lên qua từng năm. Với 3260km đường bờ biển, lại nằm ở vị trí trung tâm của Đông Nam Á, vì vậy vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đã trở thành phương thức vận chuyển chủ yếu trong hoạt động xuất nhập khẩu. Theo báo cáo của bộ giao thông vận tải năm 2003 thì hàng năm có khoảng 90% khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu được vận chuyển theo phương thức này, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nên kinh tế nước ta.
Như bất kì phương thức vận tải nào khác, vận tải bằng đường biển cũng không thể nào tránh khỏi những rủi ro bất ngờ, gây nên tổn thất lớn đối với các chủ hàng, đến nền kinh tế quốc gia. Đó là lí do mà nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã ra đời từ rất sớm, sự ra đời của nghiệp vụ này nhằm giúp các chủ hàng đảm bảo được sự ổn định về mặt tài chính, dẫn đến ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã phát triển rất mạnh trên thế giới, tuy nhiên khi triển khai trong nước vẫn còn gặp khó khăn. Tỷ trọng hàng nhập khẩu được bảo hiểm bởi các công ty bảo hiểm trong nước chỉ chiếm 25%, và hàng xuất khẩu chỉ chiếm 8%. Đây quả là những con số còn khá khiêm tốn.
Xuất phát từ vấn đề đó, sau thời gian thực tập tại Công ty Bảo hiểm Toàn Cầu (GIC), em đã chọn đề tài : “Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Toàn Cầu” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Mục đích của đề tài là nghiên cứu, phân tích đánh giá việc thực hiện bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Toàn Cầu trong thời gian qua, từ đó rút ra kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện nghiệp vụ này trong thời gian tới đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các chủ hàng khi tham gia bảo hiểm và góp phần vào sự phát triển chung của công ty.
Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương :
Chương 1: lý luận chung về bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Chương 2: thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở công ty bảo hiểm Toàn Cầu.
Chương 3: kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở công ty bảo hiểm toàn cầu.
Do thời gian thực tập không nhiều, trình độ còn hạn chế cả về mặt lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn nên chuyên đề không tránh khỏi thiếu sót nhất định. Em rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy cô để hoàn thiện chuyên đề hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM HÀNG HÓA
XUẤTNHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
SỰ CẦN THIẾT CỦA BẢO HIỂM HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỆN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
Vai trò xuất nhập khẩu hàng hóa
Từ thế kỷ 15, con người đã nhận ra rằng, ngoại thương có vai trò quan trọng trong quá trình tạo ra của cải cho nền kinh tế quốc gia. Ngày nay, không có một quốc gia nào có thể phát triển nền kinh tế chỉ dựa vào nền sản xuất trong nước. Quá trình chuyên môn hóa sản xuất giúp cho mỗi quốc gia có thể phát triển được thế mạnh của mình, và xuất nhập khẩu đem lại lợi thế thương mại cho cả hai bên.
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ, mà là cả một hệ thống các quan hệ buôn bán trên nền thương mại có tổ chức cả trong nước và nước ngoài, nhằm thúc đẩy nền sản xất hàng hóa, chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, từng bước nâng cao đời sống cho người dân, nhờ đó con người có khả năng sử dụng vượt xa khả năng sản xuất của mình.
Xuất nhập khẩu là thế lực to lớn chi phối nền kinh tế thế giới mang lại giá trị sử dụng cho nền kinh tế quốc tế thông qua hoạt động mua bán, nó lam thay đổi cơ cấu tích lũy và tiêu dùng của các tầng lớp dân cư khác nhau trong xã hội. Đồng thời XNK giúp cho thương mại trong nước phát triển, làm tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, giảm giá cả hàng hóa dịch vụ, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ…
Vai trò và đặc điểm vận tải bằng đường biển
Vai trò
- Trong xu hướng toàn cầu hóa, các nước luôn phải cố gắng duy trì và mở rộng thị trường trên toàn thế giới, làm cho các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa giữa các nước và các khu vực mở rộng cả chiều rộng và chiều sâu, khối lượng hàng hàng hóa được lưu chuyển ngày càng lớn. Hoạt động xuất nhập khẩu không ngừng phát triển. Việc vận chuyển hàng hóa có thể sử dụng nhiều phương thức khác nhau như đường sắt, đường bộ, đường hàng không… nhưng đến nay, vận tải bằng đường biển vẫn đóng vai trà huyết mạch quan trọng nối liền hoạt động thông thương đó. Ngày nay, hơn 90% tổng khối lượng hàng hóa xuất nhâp khẩu được chuyên chở bằng đường biển trên toàn thế giới, ở Việt Nam là hơn 95% tổng khối lượng HHXNK.
- Vận tải bằng đường biển góp phần thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa thông qua các quan hệ trao đổi buôn bán hàng hóa, phát triển ngoại thương, thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước. Đồng thời góp phần tăng thu ngoại tệ cho quốc gia.
Đặc điểm
- Vận tải bằng đường biển có những ưu thế nổi bật :
Hầu hết những tuyến giao thông đều là tự nhiên, không đòi hỏi nhiều vốn, nguyên vật lieu, sức lao động để xây dựng, duy trì, bảo quản, trừ việc xây dựng các kênh đào, hải cảng.
Vận tải đường biển thích hợp cho việc vận chuyển hầu hết các loại hàng hóa trong thương mại quốc tế. Đặc biệt thích hợp và hiệu quả là các loại hàng rời có khối lượng lớn và giá trị thấp như than đá, quặng, ngũ cốc, phốt phát và dầu mỏ.
Năng lực chuyên chở của các phương tiện vận tải biển thường rất lớn, có thể chuyên chở các loại hàng hóa siêu trường, siêu trọng mà các phương tiện khác khó có thể đáp ứng, lại có thể chạy nhiều tàu trong cùng một thời gian trên cùng một tuyến đường; thời gian tàu nằm chờ tại các cảng giảm nhờ sử dụng container và các phương tiện xếp dỡ hiện đại nên khả năng thông qua của một cảng là rất lớn.
Tiêu thụ nhiên liệu trên một tấn trọng tải thấp, chỉ cao hơn vận tải đường sông một ít.
Cước phí vận chuyển bằng đường biển thấp hơn nhiều so với các phương tiện vận chuyển khác, chỉ cao hơn phí vận chuyển bằng đường sắt một chút. Cước vận chuyển bằng đường sắt bằng 1/6 cước vân chuyển bằng hàng không, bằng 1/3 cước vận chuyển bằng đường bộ.
Thủ tục hải quan và kiểm dịch chỉ phải làm một lần.
Tuy nhiên, hoạt động vận chuyển bằng đường biển có một số nhược điểm sau:
Các phương tiện vận tải bằng đường biển lưu thông trên những tuyến đường tự nhiên, do đó chịu sự tác đông rất lớn của điều kiện tự nhiên như: mưa, bão, sóng thần, thủy triều … Các rủi ro hàng hải có thể xảy ra như mắc cạn, đắm, cháy, đâm va nhau và đâm va phải đá, mất tích …
Tốc độ tàu biển tương đối thấp, vì vậy quá trình vận chuyển thường kéo dài, tàu có thể phải dừng lại tại nhiều cảng để bốc dỡ hàng hóa có thể hàng tháng, thậm chí hàng năm, thời gian càng dài, rủi do càng cao.
Chuyến hành trình có thể phải đi qua nhiều quốc gia, điều đó gây ra khó khăn trong việc tuân theo các tập quán, quốc gia đó. Ngoài ra, còn phải chịu môi trường chính trị khắc nghiệt như chiến tranh, đình công, hay cướp bóc có thể gây tổn thất lớn đối với tàu và hàng.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, mỗi chuyến tàu thường có giá trị rất lớn bao gồm cả giá trị tàu và hàng hóa trên tàu, nếu rủi ro xảy ra có thể gây tổn thất rất lớn đối với tài sản và con người. Có những chuyến hàng có thể là cả một gia tài của chủ hàng, nếu tổn thất toàn bộ xảy ra để lại hậu quả rất nặng nề.
Hàng hóa được chở trên tàu thuộc trách nhiệm của chủ hàng, tuy nhiên trách nhiệm này rất hạn chế về thời gian, phạm vi và mức độ tuy thuộc điều kiện giao hàng và hợp đồng vận chuyển.
Ngoài ra, các chuyến vận chuyển còn có thể gặp trục trặc kỹ thuật từ những con tàu chở hàng.
Do các tàu biển hoạt động tương đối độc lập giữa vùng không gian rộng lớn, do đó nếu xảy ra sự cố thì việc cứu hộ, cứu nạn sẽ rất khó khăn.
1.1.3 Sự cần thiết của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
Quá trình vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển tuy có nhiều ưu điểm vượt trội, nhưng cũng có nhiều yếu tố đe dọa đến độ an toàn của tàu và hàng, gây thiệt hại lớn đối với các thương nhân. Do đó, các chủ hàng thường phải mua bảo hiểm cho hàng hóa để đảm bảo sự ổn định tài chính của mình.
Bảo hiểm là sự san sẻ rủi ro thông qua một quỹ tiền tệ tập chung từ sự đóng góp của người tham gia bảo hiểm (được gọi là phí bảo hiểm), và người bảo hiểm sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm những tổn thất của hàng hóa hay trách nhiệm liên quan do một rủi ro đã thỏa thuận gây nên.
Trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, người tham gia bảo hiểm có thể là người xuất hoặc người nhập tùy theo từng điều kiện thương mại và điều kiện giao hàng mà hai bên đã thỏa thuận với nhau để bảo hiểm cho hàng hóa được chuyên chở trên tàu.
Vì những rủi ro có thể xảy ra gây nên thiệt hại lớn đối với tàu và hàng hóa trên biển, bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển càng khẳng định được vai trò của mình:
Theo hợp đồng vận tải, người chuyên chở chỉ chịu chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng hóa trong một phạm vi và giới hạn nhất định. Trên vận đơn đường biển có rất nhiều rủi ro mà các hãng tàu loại trừ không chịu trách nhiệm. Ngay cả công ước quốc tế cũng quy định miễn trách nhiệm rất nhiều cho người chuyên chở. Vì vậy các nhà kinh doanh phải mua bảo hiểm cho hàng hóa để đảm bảo quyền lợi khi có rủi ro xảy ra.
Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận tải bằng đường biển ra đời rất sớm, do đó việc mua bán bảo hiểm xuất nhập khẩu vận tải bằng đường biển đã trở thành tập quán quốc tế trong hoạt động ngoại thương.
Như vậy, việc tham gia bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là rất quan trọng và đã khẳng định vai trò trong thương mại quốc tế.
Tác dụng:
Bảo hiểm bảo đảm bảo cho sự an toàn ổn định cho các doanh nghiệp yên tâm, nhanh chóng khôi phục kinh doanh khi không may gặp rủi ro.
Nâng cao ý thức trách nhiệm của các bên trong quá trình vận chuyển và thuong mại quốc tế, vì nhà bảo hiểm đưa ra mức miễn thường, không bồi thường cho những tổn thất thấp hơn mức miễn thường, bắt buộc chủ tàu phải cùng gánh vác một phần về tài chính với người bảo hiểm một khi có tổn thất xảy ra, như vậy khách hàng mới có trách nhiệm hơn trong công tác đề phòng hạn chế tổn thất đối với đối tượng được bảo hiểm.
Bảo hiểm có tác dụng to lớn trong việc nâng cao hiệu quả đề phòng, hạn chế tổn thất. Các nhà bảo hiểm phối hợp với người được bảo hiểm, người vận chuyển xây dựng những phương án, những thiết bị giảm thiểu rủi ro và hạn chế tổn thất.
Hàng hóa xuất nhập khẩu thường có giá trị lớn, do đó phí bảo hiểm thu được không phải là nhỏ. Đó là một nguồn đầu tư lớn, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế.
Hoạt động bảo hiểm góp phần tăng nguồn vốn cho ngân sách nhà nước, và trực tiếp tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động
Thông qua hoạt động bảo hiểm, tái bảo hiểm , liên doanh liên kết thiết lập được mối quan hệ quốc tế rộng rãi, học hởi được nhiều kinh nghiệm từ nước ngoài.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động xuất nhập khẩu, và ngược lại, một quốc gia có hoạt động xuất nhập khẩu phát triển thì chắc chắn sẽ có một trình độ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu cao.
. BẢO HIỂM HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
1.2.1 Rủi ro và tổn thất được bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
1.2.1.1 Các rủi ro
Rủi ro trong hàng hải là những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển gây ra, làm hư hỏng hàng hóa và các phương tiện vận chuyển. Để thuận tiện trong việc xây dựng các quy tắc bảo hiểm và để hạn chế tối đa những hiện tượng tranh chấp, khiếu nại trong giám định bồi thường, người ta tiến phân loại các rủi ro như sau:
a, Căn cứ vào nguyên nhân gây ra tổn thất:
Rủi ro do thiên tai gây ra như biển động, bão lốc, sống thần, thời tiết xấu, mây, mưa gió...
Tai nạn bất ngờ trên biển như: rủi ro mắc cạn, chìm đắm, đâm va với các vật thể không phải là nước…
Rủi ro do hành động của con người: ăn trộm, cướp biển, bạo loạn, đình công, chiến tranh..
Tổn thất trong quá trình bốc dỡ hàng hóa lên tàu, sà lan.
b, Căn cứ theo điều kiện bảo hiểm :
Rủi ro được bảo hiểm: là rủi ro được bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm gốc. Các rủi ro phải mang tính chất bất ngờ, ngẫu nhiên, xảy ra ngoài ý muốn của con người. Thông thường các rủi ro được bảo hiểm đó là:
+ Chìm đắm: là hiện tượng tàu vận chuyển bị chìm xuống biển chấm dứt cuộc hành trình. Nếu tàu chấm dứt hành trình giữa đường nhưng không chìm hẳn xuống nước do chuyên chở các vật thể nổi như nút chai gỗ… vẫn được coi là đắm. tàu đắm gây ra tổn thất toàn bộ cho hàng hóa. Chìm đắm có thể do tàu thủng, bị sóng đánh…
+ Đâm va: có thể tàu đâm va vào những vật thể cố định như cầu cảng, đá ngầm, hoặc đâm va với các phương tiện di chuyển như tàu khác, sà lan, phương tiện lai dắt…hàng hóa có thể bị thiệt hại do sự đâm va này
+ Cháy nổ: xảy ra có thể do cố ý, sự bất cẩn của con người, cháy có thể xuất phát từ tàu, có thể từ phía hàng hóa vận chuyển. Thông thường các con tàu đều có trữ lượng dầu lớn, do đó, khi xảy ra cháy nổ thì thiệt hại mang tính thảm họa, khó có thể cứu chữa.
+ Mắc cạn: là hiện tượng tàu sát liền với đáy biển hoặc nằm trên chướng ngại vật nào đó làm tàu không chạy tiếp được, cần tác động ngoại lực để tàu tiếp tục chạy.
- Rủi ro không được bảo hiểm: là các rủi không được người bảo hiểm chấp nhận trong bất cứ điều kiện bảo hiểm nào. Đó là những rủi ro do hành vi cố ý của chủ hàng, những hàng vi sai trái của bất kỳ người nào; các hao hụt tự nhiên, tổn thất do vũ khí chiến tranh…
- Rủi ro đặc biệt: chiến tranh, đình công, bạo loạn, thông thường không được bảo hiểm, nhưng nếu chủ hàng có yêu cầu thì nhà bảo hiểm vẫn chấp nhận bảo hiểm theo điều kiện kèm theo với các điều khoản thông thường, mà không bảo hiểm riêng mình nó.
1.2.1.2 Các tổn thất
Tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là những thiệt hại hư hỏng của hàng hóa được bảo hiểm ro rủi ro gây ra:
a, Phân loại tổn thất
Căn cứ theo mức độ tổn thất có thể chia tổn thất ra làm hai loại:
Tổn thất bộ phận: là một phần của đối tượng bảo hiểm theo một hợp đồng bảo hiểm bị mất mát hư hỏng, thiệt hại. Tổn thất bộ phận có thể là tổn thất về số lượng, trọng lượng, thể tích, phẩm chất hoặc giá trị hàng hóa.
- Tổn thất toàn bộ là toàn bộ hàng hóa bị thiệt hại, hư hỏng biến chất, biến dạng, không còn giá trị. Tổn thất toàn bộ được chia làm 2 loại:
Tổn thất toàn bộ thực tế: là toàn bộ đối tượng hàng hóa được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm bị hư hỏng, mất mát, thiệt hại, bị biến chất, biến dạng không còn như lúc đầu được bảo hiểm, hoặc bị mất đi, tước đoạt không lấy lại được nữa. Tổn thất toàn bộ thực tế xảy ra khi:
- Khi hàng hóa bị hủy hoại hoàn toàn. Ví dụ như lô hàng gốm sứ xuất khẩu, trên đường đi gặp bão lớn làm lô hàng bị đổ vỡ toàn bộ.
- Hàng hóa bị tước đoạt không lấy lại được. Ví dụ hàng hóa bị cướp biển lấy đi toàn bộ.
- Hàng hóa bị biến dạng, biến chất không còn là vật thể bảo hiểm nữa.Ví dụ như Xi măng bị nước vào, toàn bộ xi măng không sử dụng được nữa.
- Hàng hóa trên tàu được tuyên bố là mất tích.
Tổn thất toàn bộ ước tính: là hàng hóa được bảo hiểm bị tổn thất, thiệt hại chưa đến mức tổn thất toàn bộ thực tế, nhưng không thể tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực tế, hoặc nếu bỏ thêm chi phí cứu vớt có thế chi phí cứu vớt bằng hoặc lớn hơn giá trị hàng hóa. Và cũng có thể là toàn bộ chi phí mà chủ hàng gửi hàng đến nơi nhận lớn hơn giá trị bản thân lô hàng đó tại thời điểm nhất định. Khi gặp trường hợp này, tốt nhất các chủ hàng nên tuyên bố từ bỏ hàng và người bảo hiểm sẽ phải bồi thường tổn thất toàn bộ.
Vídụ: Một lô hàng gạo được xuất từ Việt Nam sang Nam Phi, dọc đường hàng bị ngấm nước và bắt đầu mốc thối, nếu cố mang sang Nam Phi thi gạo sẽ hư hỏng toàn bộ thực tế chắc chắn sẽ xảy ra.
Hoặc tàu bị tai nạn cần vào cảng lánh nạn để sửa chữa mới có thể tiếp tục lịch trình, nhưng thời gian sửa chữa kéo dài, gạo bị ngấm nước có thể sẽ được mang ra xử lý