Cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đang trong quá trình đổi mới và đã đạt được những thành công nhất định. Trong quá trình hội nhập, cạnh tranh ngày một diễn ra ngay gắt đặt hệ thống ngân hàng Việt Nam trước những vận hội mới cũng như những khó khăn phải đối mặt. Hoạt động của ngân hàng đạt kết quả tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển và ngược lại, sự hoạt động yếu kém của ngân hàng sẽ ảnh hưởng xấu sự phát triển của cả nền kinh tế. Xác định được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng và vai trò của ngân hàng, Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như chất lượng tín dụng trong toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam.
Hoà vào nhịp đổi mới toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Sài Gòn Hà Nội (SHB) nói chung và SHB chi nhánh Hà Nội nói riêng cũng đã và đang có sự đổi mới đáng khích lệ. Tuy nhiên trong tiến trình đổi mới, ngân hàng đã gặp nhiều khó khăn, trở ngại đặc biệt trong giai đoạn vừa qua. Dưới tác động của suy thoái kinh tế, khủng hoảng tài chính toàn cầu, hoạt động của các ngân hàng thương mại trong đó có cả SHB đã gặp những thử thách thực sự: Khó khăn trong huy động vốn, tăng trưởng dư nợ, tỷ lệ nợ xấu gia tăng, khó khăn trong kiểm soát rủi ro đồng thời bộc lộ những tồn tại làm chất lượng hoạt động nói chung của ngân hành và hoạt động tín dụng đối với khối khách hàng doanh nghiệp nói riêng chưa thực sự hiệu quả và còn nhiều bất cập. Đồng thời, Việt Nam đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế nên việc phát triển mạnh các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển thì chúng ta phải giải quyết hàng loạt các vấn đề, trong đó khó khăn nhất chính là cung cấp đủ vốn cho các doanh nghiệp, thực hiện tốt chức năng dẫn vốn của hệ thống NHTM.
62 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5160 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với khối khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng SHB chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của chuyên đề.
Cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đang trong quá trình đổi mới và đã đạt được những thành công nhất định. Trong quá trình hội nhập, cạnh tranh ngày một diễn ra ngay gắt đặt hệ thống ngân hàng Việt Nam trước những vận hội mới cũng như những khó khăn phải đối mặt. Hoạt động của ngân hàng đạt kết quả tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển và ngược lại, sự hoạt động yếu kém của ngân hàng sẽ ảnh hưởng xấu sự phát triển của cả nền kinh tế. Xác định được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng và vai trò của ngân hàng, Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như chất lượng tín dụng trong toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam.
Hoà vào nhịp đổi mới toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Sài Gòn Hà Nội (SHB) nói chung và SHB chi nhánh Hà Nội nói riêng cũng đã và đang có sự đổi mới đáng khích lệ. Tuy nhiên trong tiến trình đổi mới, ngân hàng đã gặp nhiều khó khăn, trở ngại đặc biệt trong giai đoạn vừa qua. Dưới tác động của suy thoái kinh tế, khủng hoảng tài chính toàn cầu, hoạt động của các ngân hàng thương mại trong đó có cả SHB đã gặp những thử thách thực sự: Khó khăn trong huy động vốn, tăng trưởng dư nợ, tỷ lệ nợ xấu gia tăng, khó khăn trong kiểm soát rủi ro… đồng thời bộc lộ những tồn tại làm chất lượng hoạt động nói chung của ngân hành và hoạt động tín dụng đối với khối khách hàng doanh nghiệp nói riêng chưa thực sự hiệu quả và còn nhiều bất cập. Đồng thời, Việt Nam đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế nên việc phát triển mạnh các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển thì chúng ta phải giải quyết hàng loạt các vấn đề, trong đó khó khăn nhất chính là cung cấp đủ vốn cho các doanh nghiệp, thực hiện tốt chức năng dẫn vốn của hệ thống NHTM.
Chính vì những lý do trên, mà tác giả quyết định chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với khối khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng SHB chi nhánh Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu của chuyên đề tốt nghiệp.
Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản liên quan đến chất lượng tín dụng đối với khối khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại.
Phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đối với khối khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng SHB chi nhánh Hà Nội.
Trên cơ sở các lý luận và phân tích thực trạng mở rộng tín dụng, bài viết đề ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với khối khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng SHB chi nhánh Hà Nội.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về hiệu quả cho vay đối với khối khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng SHB chi nhánh Hà Nội trong thời gian 3 năm từ năm 2009 đến năm 2011.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, nghiên cứu tổng hợp các lý luận khoa học, khảo sát thực tiễn có đối chứng, so sánh đối chứng với lý luận khoa học kết hợp với tư duy phân tích kinh tế, sử dụng phương pháp thống kê, so sánh để giải quyết các vấn đề đặt ra.
Kết cấu của chuyên đề
Phần nội dung của chuyên đề được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về hiệu quả cho vay của ngân hàng thương mại đối với khách hàng doanh nghiệp.
Chương 2: Phân tích hiệu quả cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp tại SHB chi nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay đối với khối khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng SHB chi nhánh Hà Nội.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ CHO VAY CỦA NHTM ĐỐI VỚI KHỐI KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP
Khái quát về khách hàng doanh nghiệp
Khái niệm về doanh nghiệp
Tùy thuộc vào từng thời kỳ và tính chất, trình độ phát triển của nền kinh tế và góc độ xem xét phân tích, khái niêm doanh nghiệp được đề cập với nhiều nội dung khác nhau. Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005 của Việt Nam, khái niệm về doanh nghiệp như sau: "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh" .
Đặc điểm doanh nghiệp ở Việt Nam
Theo số liệu thống kê, năm 2011, nước ta có khoảng 97% tổng số DN đã đăng ký trên cả nước là doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN); đóng góp gần 60% GDP Việt Nam năm 2011, cũng như 40% ngân sách quốc gia. Các DNVVN đã và đang là tạo ra một thị trường rộng lớn, mang lại nhiều tiềm năng về doanh thu cho các NHTM từ cấp tín dụng cho tới các sản phẩm khác. Cùng với các đặc điểm đặc thù của mình sẽ được nhắc dưới đây, DNVVN là đối tượng tiềm năng mà các NHTM cần chú trọng, và sẽ là đối tượng được nghiên cứu chủ yếu trong chuyên đề.
Khái niệm về DNVVN: (Theo điều 3 Nghị đinh 56/2009/NĐ-CP)
“ DNVVN là cơ sở kinh doanh theo quy định của pháp luật, được chia thành 3 cấp: siêu nhỏ, nhỏ và vừa theo quy mô nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (trong đó tổng nguồn vốn làm tiêu chí ưu tiên)”.
Bảng 1.1: Tiêu chí xác định DNVVN theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP
Quy mô/Khu vực
DN siêu nhỏ
DN nhỏ
DN vừa
Số lao động
Nguồn vốn
Số lao động
Nguồn vốn
Số lao động
Nông lâm nghiệp và thủy sản
< 10 người
< 20 tỷ đồng
10-200 người
20-100 tỷ đồng
200-300 người
Công nghiệp và xây dựng
< 10 người
< 20 tỷ đồng
10-200 người
20-100 tỷ đồng
200-300 người
Thương mại và dịch vụ
< 10 người
< 10 tỷ đồng
10-50 người
10-50 tỷ đồng
50-100 người
(Nguồn: Nghị định 56/2009/NĐ-CP).
Đặc điểm của DNVVN:
Là loại hình doanh nghiệp có thể tạo lập dễ dàng bởi vì để thành lập DN chỉ cần một số vốn đầu tư ban đầu nhỏ, mặt bằng sản xuất, kinh doanh nhỏ, tận dụng được nguồn lao động thay thế cho nguồn vốn với mức tiền lương thấp, hơn nữa khả năng thu hồi vốn của DNVVN khá nhanh nên vòng quay của vốn nhanh hơn các doanh nghiệp lớn.
DNVVN có bộ máy quản lý gọn nhẹ, cơ chế tổ chức đơn giản, không cồng kềnh do đó trình độ quản lý không đòi hỏi cao như các doanh nghiệp lớn nên chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm, dịch vụ thấp.
Với quy mô nguồn vốn nhỏ nên các DNVVN có thể phát triển rộng khắp các vùng của cả nước, tham gia vào nhiều lĩnh vực, ngành nghề và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế, tạo ra nhưng sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhu cầu của từng vùng miền.
DNVVN thường tập trung vào kinh doanh một số mặt hàng chính, không kinh doanh quá nhiều mặt hàng như các doanh nghiệp lớn nên các DNVVN có độ nhạy bén cao hơn và dễ dàng nắm bắt các thông tin và cơ hội đầu tư sản xuất kinh doanh khi thời cơ đến. Mặt khác khi gặp các biến cố của môi trường kinh doanh thì loại hình doanh nghiệp này linh hoạt hơn trong việc chuyển đổi hoặc thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh hơn so với các doanh nghiệp lớn, do vậy mà tổn thất ít hơn.
Do quy mô và năng lực tài chính còn hạn chế của DNVVN nên doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong mua sắm máy móc thiết bị, đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị kỷ thuật hiện đại. Đồng thời do hạn chế về năng lực tài chính nên các DNVVN thường gặp khó khăn trong việc đào tạo nâng cao năng lực và tay nghề của cán bộ và công nhân.
Nguồn vốn tự có và tài sản của DNVVN còn hạn chế nên khả năng vay vốn tín dụng ngân hàng cũng như việc huy động vốn trên thị trường tài chính là rất khó khăn, do đó DNVVN thương rơi vào tình trạng thiếu vốn để đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chính nhưng hạn chế về vốn, về trình độ công nghệ, về phương thức quản lý mà khả năng cạnh tranh, tiếp cận thị trường của doanh nghiệp thấp. Đây là nhưng yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho ngân hàng khi cho các DNVVN vay.
Vai trò của DNVVN
Sự phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế thi trường đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết những mục tiêu kinh tế xã hội ở một số điểm sau:
Các DNVVN đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế và tổng thu nhập quốc dân. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì các DNVVN đóng góp rất lớn vào sự gia tăng thu nhập quốc dân, bình quân chiếm khoảng 40% GDP, giúp đảm bảo chỉ tiêu tăng trưởng của nền kinh tế.
Cung cấp một khối lượng hàng hóa đáng kể cho xã hội. Theo thống kê của trung tâm hỗ trợ DNVVN, hàng năm các DNVVN đã đóng góp 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, gần 80% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hóa và 100% giá trị sản lượng hàng hóa một số ngành hàng thủ công mỹ nghệ…
Sự có mặt của các DNVVN đã thu hút một lượng lớn lao động, tạo ra nhiều việc làm mới với chi phí đầu tư thấp và tạo nguồn thu nhập ổn định và thường xuyên cho dân cư. Ở Việt Nam, các DNVVN sử dung đến 50.1% lao động trong xã hội đã góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và các vấn đề trong xã hội, đồng thời góp phần giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phân dân cư, tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng, các miền của đất nước và cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế.
DNVVN có khả năng khai thác phát huy các nguồn lực và tiềm năng tai chỗ của các địa phương, các nguồn tài chính trong dân. Do tính chất nhỏ lẻ, quy mô nguồn vốn không nhiều nên loại hình doanh nghiệp này có thể được thành lập được ở tất cả các địa phương, tận dụng được nhưng thay thế tại chỗ giảm chi phí sản xuất, kinh doanh.
Hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động. Cùng với sự hình thành và phát triển của các DNVVN là sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nhà kinh doanh sáng lập mới năng động và sáng tạo. Đó là lực lượng cần thiết góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh ở những nước đang phát triển trong đó có nước ta. Nhưng năm gần đây đã xuất hiện nhiều đội nhũ các nhà quản lý trẻ, năng động, sáng tạo biết cách chèo chống đưa doanh nghiệp thoát ra cuộc khủng hoảng kinh tế và phát triển lên thành các doanh nghiệp lớn. Do vậy, đây là một môi trường đào tạo, rèn luyện và phát triển đội ngũ các nhà lãnh đạo tốt cho xã hội.
Tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển có hiệu quả hơn. Với sự tham gia của nhiều các DNVVN vào hoạt động sản xuất kinh doanh đã làm cho số lượng các chủng loại hàng hóa dịch vụ tăng lên rất nhiều. Kết quả là đã làm tăng tính chất cạnh tranh trên thị trường, tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp thường xuyên đổi mới mặt hàng, thay đổi, cải tiến công nghệ-kỷ thuật tăng chất lượng sản phẩm, dịch vụ để thích ứng với những thay đổi của môi trường mới. Những yếu tố đó đã làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn.
Thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng miền, đặc biệt là ở nông thôn, miền núi. Sự phát triển của DNVVN ở nông thôn và miền núi đã góp phần thúc đây nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ ngành nông, lâm, ngư nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ.
Khái quát về tín dụng ngân hàng
Khái niệm về tín dụng
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng được hiểu theo nghĩa sau:
“Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một khoảng thời gian nhất định được quay trở lại người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn ban đầu”.
Phân loại tín dụng
Căn cứ vào đối tượng khách hàng
Hiện tại, để thuận tiện các NHTM thường có nhiều sản phẩm tín dụng phù hợp theo yêu cầu của khách hàng và chia theo đối tượng khách hàng để phục vụ, theo tiêu chí này khách hàng được chia làm 2 loại:
Tín dụng cá nhân: Hiện tại có rất nhiều sản phẩm tín dụng phục vụ đối tượng khách hàng cá nhân bao gồm cá nhân phục vụ nhu cầu tiêu dùng, cá nhân vay vốn phục vụ nhu cầu kinh doanh.
Tín dụng doanh nghiệp: Là các sản phẩm tín dụng phục vụ đối tượng khách hàng doanh nghiệp bao gồm các mục đích: Vay bổ sung vốn lưu động kinh doanh, cho vay tài trợ mua sắm tài sản cố định, cho vay đầu tư dự án, cho vay tài trợ xuất nhập khẩu.
Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Tín dụng ngắn hạn: Loại tín dụng này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với NHTM tín dụng ngân hàng chiếm tỷ trọng cao nhất.
Tín dụng trung hạn: Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước Việt Nam, tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: Theo quy định ở Việt Nam loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài hạn là loại tín dựng cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dung các xí nghiệp mới. Nghiệp vụ truyền thống của các NHTM là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 70 trở lại đây các NHTM đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài .
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị tài chính hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần tài sản bảo đảm.
Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có một nguồn thu thứ hai, bổ sung nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Đồng thời tài sản thế chấp này bảo đảm khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích cam kết.
Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
Tín dụng bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền. Đây là loại tín dụng chủ yếu của các ngân hàng và việc thực hiện bằng các kỷ thuật khác nhau như: Tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp...
Tín dụng bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng, riêng đối với các ngân hàng cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ biến đó là tài trợ thuê mua. Theo phương thức cho vay này ngân hàng hoặc các công ty thuê mua (công ty con của ngân hàng) cung cấp trực tiếp tài sản cho người đi vay được gọi là người đi thuê và theo định kỳ người đi thuê hoàn trả nợ vay bao gồm cả vốn gốc và lãi.
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng
Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho những người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các NHTM cho vay gián tiếp theo các loại sau: Chiết khấu thương mại, mua các phiếu bán hàng, mua các khoản nợ của doanh nghiệp… Ngoài các loại cho vay trên đây, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với nghiệp vụ này ngân hàng không phải cung cấp tiền, nhưng khi người bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Chính vì lý do trên đây, mà người ta gọi hành vi cam kết bảo lãnh của ngân hàng là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng chữ ký bao gồm các loại: Tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng.
Vai trò của tín dụng
Vai trò của tín dụng đối với nền kinh tế
Ngân hàng trong nền kinh tế với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Với tư cách là một trung gian tài chính, nó là kênh chuyển vốn từ những nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn và hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế. Các kênh truyền dẫn vốn có thể qua thị trường tài chính đó là các nghiệp vụ tín dụng, ngắn hạn, trung và dài hạn, nhưng nó đã bị cạnh tranh mạnh mãnh mẽ của các tổ chức tài chính phi ngân hàng tham gia vào thị trường này như: Công ty Bảo hiểm, các quỹ đầu tư, công ty tài chính. Hoặc là thị trường tiền tệ là kênh dẫn và huy động những ngồn vốn và các giấy tờ có giá ngắn hạn. Thị trường này hoạt động rất linh hoạt và cung cấp một nguồn một nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế. Do đó hoạt động tín dụng ngân hàng đã giúp lưu thông vốn nhanh và phát triển ổn định nền kinh tế.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
Hỗ trợ sự ra đời và bổ sung vốn, tạo điều kiên cho DNVVN mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh
Ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính thực hiện một trong những chức năng chủ yếu của mình là tiến hành huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi sau đó cho vay ra đối với nền kinh tế. Thông qua các hoạt động cho vay của mình ngân hàng đã đảm bảo cho các doanh nghiệp không chỉ được hình thành hợp pháp và duy trì sản xuất kinh doanh của mình mà còn tái sản xuất mở rộng.
Đối với các doanh nghiệp hiện nay, vốn vẫn luôn là vấn đề gây khó khăn nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp là phổ biến và nghiêm trọng. Hoạt động tín dụng của các NHTM là hình thức tốt nhất để đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp bởi tính linh hoạt của nó. Hoạt động tín dụng của NHTM không chỉ mang đến nguồn vốn bổ sung nữa mà đã dần trở thành một nguồn vốn chủ yếu, quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hoạt động tín dụng giúp cho các doanh nghiệp không bỏ lỡ cơ hội đầu tư, thời vụ làm ăn, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục, quá trình lưu thông được thông suốt, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong toàn xã hội.
Mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng, tay nghề của người lao động nhằm mục đích nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh được thị trường… để thực hiện được các khoản đầu tư đó doanh nghiệp không chỉ cần có nguồn vốn tạm thời mà còn phải có một lượng vốn cố định và ổn định lâu dài. Qui mô vốn đầu tư cho các yêu cầu trên vượt quá khả năng vốn của các DNVVN. Thông qua hoạt động tín, NHTM có thể giúp cho các DNVVN thoả mãn nhu cầu vốn phục vụ cho các hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh đó.
Giúp các DNVVN tăng cường quản lý và sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả.
Bản chất của hoạt động tín dụng không chỉ là hình thức cung ứng vốn mà còn hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời hạn quy định. Do đó, các DNVVN sau khi sử dụng vốn vay trong sản xuất kinh doanh không chỉ cần thu hồi vốn là đủ mà còn phải tìm ra nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, tăng nhanh vòng quay của vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất ngân hàng thì doanh nghiệp mới có thể trả được nợ và thu lãi.
DNVVN muốn có được vốn vay ngân hàng thì phải hoàn thiện năng lực tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Ngoài ra, trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, ngân hàng sẽ thực hiện quy trình giám sát, kiểm tra, kiểm soát trong và sau khi cho vay, thông qua việc làm đó ngân hàng giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn của DNVVN, buộc các DNVVN phải thực hiện đúng những điều khoản như đã thoả thuận trong hợp đồng, sử dụng vốn đúng mục đích để đem lại hiệu quả cao nhất. Một yếu tố khác là do quyền lợi của ngân hàng luôn gắn chặt với quyền lợi của khách hàng, nên ngân hàng sẽ sẵn sàng hợp tác với DNVVN để tháo gỡ những khó khăn trong phạm vi cho phép, tư vấn cho doanh nghiệp về các vấn đề có liên quan, tạo điều kiện giúp doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Tác động tích cực đến nhịp độ phát triển, thúc đẩy tính cạnh tranh
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật