Trong quá trình gần nửa thế kỉ từ ngày thành lập 1/4/1960 , Ngành thủy sản đã trải qua
nhiều chặng đuờng với những chủ trơng thích hợp với từng thời kì phát triển của đất nớc.
Sau những năm “nhanh tay lới, chắc tay súng” cùng toàn dân tộc vừa xây dựng miền Bắc
Xã Hội Chủ Nghĩa, vừa đấu tranh chống Mỹ cứu nớc, giành độc lập thống nhất tổ quốc;
rồi vợt qua thời kì suy thoái nghiêm trọng, tởng nh đến bờ vực phá sản của những năm
cuối 1970 của thế kỷ truớc, ngành đã có những bớc chuyển mình mạnh mẽ, là một trong
những ngành kinh tế tiên phong thử nghiệm cơ chế thị trờng, góp phần khẳng định cho
đờng lối đổi mới nền kinh tế đất nớc do Đảng khởi xớng và lãnh đạo thực hiện thành công.
Qua 20 năm thực hiện đờng lối ấy, cùng với nền kinh tế nớc nhà, ngành thủy sản đã
không ngừng tự đổi mới, đối mặt với nền kinh tế thị trờng và đã dần tự khẳng định mình
nh một ngành kinh tế mũi nhọn, đặc biệt là một trong những ngành xuất khẩu hàng đầu,
đóng góp lợng lớn ngoại tệ cần thiết cho sự nghiệp phát triển kinh tế nớc nhà
31 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2102 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng xuất khẩu tôm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….
-----[\ [\-----
TIỂU LUẬN
Đề tài:
Thực trạng và giải pháp nâng cao
chất lượng xuất khẩu tôm
Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng
xuất khẩu tôm
PHẦN I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÀNH THỦY SẢN VÀ MẶT HÀNG
TÔM XUẤT KHẨU
I. Vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân.
1. Trớc đây
Trong quá trình gần nửa thế kỉ từ ngày thành lập 1/4/1960 , Ngành thủy sản đã trải qua
nhiều chặng đuờng với những chủ trơng thích hợp với từng thời kì phát triển của đất nớc.
Sau những năm “nhanh tay lới, chắc tay súng” cùng toàn dân tộc vừa xây dựng miền Bắc
Xã Hội Chủ Nghĩa, vừa đấu tranh chống Mỹ cứu nớc, giành độc lập thống nhất tổ quốc;
rồi vợt qua thời kì suy thoái nghiêm trọng, tởng nh đến bờ vực phá sản của những năm
cuối 1970 của thế kỷ truớc, ngành đã có những bớc chuyển mình mạnh mẽ, là một trong
những ngành kinh tế tiên phong thử nghiệm cơ chế thị trờng, góp phần khẳng định cho
đờng lối đổi mới nền kinh tế đất nớc do Đảng khởi xớng và lãnh đạo thực hiện thành công.
Qua 20 năm thực hiện đờng lối ấy, cùng với nền kinh tế nớc nhà, ngành thủy sản đã
không ngừng tự đổi mới, đối mặt với nền kinh tế thị trờng và đã dần tự khẳng định mình
nh một ngành kinh tế mũi nhọn, đặc biệt là một trong những ngành xuất khẩu hàng đầu,
đóng góp lợng lớn ngoại tệ cần thiết cho sự nghiệp phát triển kinh tế nớc nhà.
2.Trong giai đoạn từ 2000 đến nay:
Ngành thủy sản vẫn duy trì đợc sự tăng trởng với tốc độ đáng kể, Tổng sản lợng thủy
sản năm 2004 đạt 3,07 triệu tấn, trong đó sản luợng khai thác thủy sản là 1,72 triệu tấn, sản
lợng thủy sản nuôi trồng và khai thác nội địa 1,35 triệu tấn, tăng tơng ứng 53%, 34% và
87% so với thực hiện năm 2000.
Năm 2000 Năm 2004 Tốc độ tăng C%
Sản lợng khai thác thủy
sản(tấn) 1,28 1,72 34
Sản lợng thủy sản nuôi
trồng và khai thác nội
địa(tấn)
0,72 1,35 87
Tổng sản lợng thủy sản
(tấn) 2,01 3,07 53
Bảng số liệu tốc độ tăng trởng thủy sản năm 2004 so với năm 2000
Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2004 đạt 2,4 tỷ USD, tăng gần 1 tỷ USD so
với năm 2000, chiếm gần 9% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nớc. Tốc độ tăng
trởng bình quân hàng năm về tổng sản lợng là 7%, về giá trị xuất khẩu là 10%.
Biểu đồ hình quạt: Tỉ trọng giá trị kim ngạch xuất khẩu của ngành thủy sản so với tổng
giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nớc(năm 2004)
Về những đóng góp quan trọng của ngành thủy sản trong 20 năm của thời kỳ đổi mới
đất nớc có thể tóm tắt nh sau:
Thứ nhất: Ngành thủy sản đã góp phần hình thành và thực hiện nhiều đờng lối, chủ
trơng, chính sách có tầm chiến lợc đối với đất nớc. Đó là quá trình hình thành đờng lối
đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, hình thành cơ chế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở
nớc ta; Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Hội nhập ngày càng sâu vào các quan hệ
kinh tế quốc tế…
Thứ hai: Đã đa nghề cá từ một lĩnh vực sản xuất thứ yếu thành một ngành sản xuất
hàng hóa với lực lợng sản xuất tiên tiến, phát huy đợc sức mạnh sáng tạo của nhiều thành
phần kinh tế, đặc biệt là bà con nông ng dân và các doanh nghiệp, hớng mạnh vào Công
nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Biến tiềm năng thiên nhiên thành của cải vật chất, phát huy lợi
thế về xuất khẩu, đa nớc ta từ chỗ cha có tên trong danh sách đến vị trí 10 nớc xuất khẩu
thủy sản lớn nhất thế giới, với nhng sản phẩm đứng ở vị trí số một thị truờng nh tôm sú,
cá tra…
Thứ ba: Đóng góp quan trọng trong sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an ninh
luơng thực, tạo lập công bằng xã hội, nhất là đối với các vùng nông thôn nghèo, vùng sâu,
vùng xa .Tại nhiều địa phơng, thủy sản , đặc biệt là nuôi trồng thủy sản, đã đợc xác định
và mở hớng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, đảm bảo nguồn sinh
kế và đảm bảo thực phẩm cho dân c, cải thiện vai trò ngời phụ nữ.…
II. Đóng góp của mặt hàng tôm xuất khẩu :
1.Trong thị trờng nội địa:
Trong những năm qua giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng mạnh. Hàng thủy
sản đã xuất khẩu tới 105 nớc và vùng lãnh thổ. Chính nhờ sự tăng trởng mạnh mẽ của
các mặt hàng thủy sản xuất khẩu đã góp phần làm thị trờng nội địa có bớc chuyển dịch.
Mặc dù mức tiêu thụ thủy sản nội địa thấp, song vấn đề tổ chức quản lí thị trờng
thủy sản nội địa; vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lợng sản phẩn, bao gói nhãn mác, xuất
sứ hàng hóa đợc thực hiện tốt sẽ là thứ thuốc “kháng sinh” mạnh đảm bảo tính cạnh tranh
hiệu quả của hàng hóa xuất khẩu.
Vì vậy để tăng doanh số xuất khẩu thì thủy sản nội địa là vấn đề cần đợc quan tâm,
thông qua việc tìm hiểu và phân tích nhu cầu trong nớc. Với mỗi mức nhu cầu khác nhau
sẽ có qui mô phát triển, loại hình nuôi trồng thủy sản cho thích hợp.
Hiện nay ở nớc ta tôm là loại thủy sản rất đợc quan tâm cả về cách thức nuôi trồng,
khai thác, chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu.
Thị trờng tôm tập trung hầu hết ở các tỉnh có nguồn nớc mặn, nớc nợ hay có thị
trờng tiêu thụ rộng lơn nh : Đồng bằng sông cửu long, Hải phòng, Thái bình.…
Nh vậy vấn đề đặt ra với thị trờng tôm nội địa là phải cho ra các sản phẩm phong
phú về chủng loại: đồ tơi, khô, đông lạnh, các loại tôm chất lợng đa dạng: từ cấp thấp,
cao cấp đến đặc biệt ,phù hợp khả năng tài chính của các tầng lớp dân c.
Bên cạnh đó cũng phải chú ý ý tới mặt hàng tôm nhập khẩu, bởi càng ngày ngời dân
càng trở lên “sính ngoại” , chúng ta cần có cách thức quản lí để ngời dân nhận ra rằng:
Mặt hàng tôm của ta chất lợng không kém mà giá cả lại hợp lí, không những thế lại dợc
xuất khẩu sang những thị trờng rộng lớn nh EU, Mỹ, Nhật bản.
Tóm lại chúng ta cần ổn định thị trờng nội địa của các mặt hàng thủy sản nói chung và
của mặt hàng tôm nói riêng để tạo điều kiện cho xuất khẩu thủy sản phát triển bên vững.
2.Trên thị trờng quốc tế:
Trong thời gian qua xuất khẩu tôm ở Viêt Nam vào thị trờng quốc tế có những biến
động rõ rệt.
Nhất là xuất khẩu vào Mỹ _ thị trờng chiếm 23-26% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản
Việt Nam, tiêu thụ 50% tôm xuất khẩu của Vệt Nam là thị trờng tiêu thụ rộng lớn cho
hàng xuất khẩu Việt Nam nó đã góp phần không nhỏ vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu
thủy sản.
Nhng đó là thị trờng đầy nguy hiểm . Kỳ đầu 2005 xảy ra vụ kiện tôm giữa Mỹ và 54
doanh nghiệp Việt Nam đã làm cho mặt hàng tôm trong nớc và xuất khẩu chao đảo, hiện
tợng rớt giá và vấn đề uy tín làm đau đầu các nhà cầm quyền.
Mặc dù sự kiện trên đã đợc giải quyết ổn thỏa, nhng nó là bài học kinh nghiệm cho các
doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam.
Việc Việt Nam ra nhập WTO, bỏ qua hàng rào thuế quan sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
những bớc phát triển của mặt hàng xuất khẩu thủy sản. Bên cạnh đó để có thể cạnh tranh
với các thị trờng tôm khác trên thế giới buộc các nhà quản lí phải có những chính sách cụ
thể. Đẩy mạnh việc xuất khẩu thủy sản không chỉ về số lợng mà còn cả chất lựơng.
Để làm đợc điều đó chúng ta cần nhìn nhận lại thực trạng phát triển của xuất khẩu thủy
sản và xuất khẩu tôm để có những biện pháp cải thiện hữu hiệu nhất.
PHẦN II
THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU TÔM
I.Những thuận lợi và khó khăn của vấn đề đầu vào.
Ngành xuất khẩu thủy sản nói chung và ngành xuất khẩu tôm nói riêng, vấn đề đầu
vào là một điểm quan trọng quyết định đến khối lợng và số lợng xuất khẩu của thủy sản
nớc ta. Nh vậy chúng ta cần phải nhìn nhận những tác động gây ảnh hởng đến nghề nuôi
tôm ở đây là gì? Những thuận lợi và khó khăn? Để từ đó có phơng hớng phát triển và
biện pháp khắc phục kịp thời.
1.Về thuận lợi:
Đợc đánh giá và phân loại thành 7 loại thuận lợi chính nh sau:
Thứ nhất : Nớc ta là một nớc có nhiều tiềm năng phát triển thủy sản: là một quốc gia
biển và giàu đất ngập nớc với 3 kiểu môi trờng nớc đặc trng là ngọt - lợ và mặn. Đây là
chỗ dựa tạo kế sinh nhai cho ng dân dân đặc biệt thuận lợi cho việc nuôi trồng, khai thác
và chế biến các loại tôm.
Tại hội nghị tổng kết ngành thủy sản năm 2004, thủ tớng chính phủ Phan Văn Khải đã
nhấn mạnh : “Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển thủy sản và cần phải phát triển
thủy sản nhanh hơn , mạnh hơn..Mục tiêu cuối cùng của ngành thủy sản là để phục vụ
lợi ích ngời lao động”.
Thứ hai : Lực lợng lao động ngày càng phát triển và có tâm huyết với nghề. Trớc đây số
hộ nuôi tôm rất ítt và tập trung ở một số tỉnh vùng sông nớc, bây giờ nhận thức của mọi
ngời đã đợc nâng cao, mô hình nuôi tôm sú và một số loại tôm có giá trị kinh tế cao
khác đã đợc mọi nguời quan tâm. Vì vậy nghề nuôi tôm phát triển khắp cả nớc với qui
mô to nhỏ tùy thuộc vào từng hình thức nuôi trồng.
Thứ ba: Các địa phơng đã thay bằng việc thả, nuôi trồng hàng loạt, ban đầu đã học tập
việc duy trì thả giống tôm và một số loài cá kinh tế khác để tái tạo, phát triển nguồn lợi
tạo thu nhập cao.
Thứ t: Bớc đầu đã có sự áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào các hoạt động: Từ
giống tôm đến hoạt động nuôi trồng , khai thác chế biến.
Đánh giá về hoạt động khoa học công nghệ trong phát triển ngành thủy sản phó thủ
tớng Phạm Gia Khiêm trong bài phát biểu truớc hội nghị toàn quốc về khoa học công nghệ
giai đoạn 2001-2005 của ngành thủy sản ngày 28/3/2005 tại Hà Nội đã nhấn mạnh: “ cùng
với việc nuôi trồng thủy sản, ngành ta đã chú y đến việc áp dụng công nghệ mới , sử dụng
vật liệu mới, nâng cao trang thiết bị cho tàu thuyền đánh cá, tìm hớng đánh bắt thủy sản,
đẩy mạnh đánh bắt xa bờ, đánh cá ngừ đại dơng. Việc làm này không chỉ có ý ý nghĩa về
kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt an ninh, quốc phòng bảo vệ chủ quyền đất nớc”.
Ngoài ra phó thủ tớng còn đánh giá hoạt động công nghệ trên 3 lĩnh vực sau:
- Công tác điều tra, nghiên cứu cơ bản và đánh giá môi trờng.
- Đề tài nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ: tạo gống mới có năng xuất chất
lợng cao và phòng đợc dịch bệnh.
- Vấn đề đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong đánh bắt, chế biến, bảo quản các sản
phẩm thủy sản nhất là các sản phẩm xuất khẩu.
Công tác quản lí khoa học công nghệ của bộ thủy sản đã có nhiều tiến bộ theo chủ trơng
hớng mạnh về cơ sở.
Nh vậy việc áp dụng khoa học công nghệ là một bớc đi lớn mang tính đột phá trong ngành
thủy sản nói chung và xuất khẩu thủy sản nói riêng.
Thứ năm: Đợc sự hớng dẫn chỉ đạo của chính phủ, công tác tổ chức quản lí và thanh tra
đợc chú trọng. Nhờ vậy không những khuyến khích đợc nghề nuôi tôm phát triển một cách
có quy hoạch cụ thể mà còn nâng cao đợc chất lợng đầu vào cho mặt hàng tôm xuất khẩu.
Thứ sáu: Cơ sở hạ tầng tốt, hình thức đánh bắt và nuôi trồng đa dạng.
Thứ bẩy: Đa dạng về chủng loại nuôi trồng thủy sản.
Trong đó đối tợng nuôi chủ lực là tôm, chủ yếu là tôm sú va một số nơi nuôi tôm chân
trắng.
Nói đến tôm sú hẳn là rất quen thuộc với mọi ngời - đó là gống tôm chủ lực ở hầu hết
các khu vực nuôi trồng thủy sản, nó đựợc giới thiệu ở rất nhiều các bài viết. Vì vậy tôi chỉ
đề cập đến giống tôm chân trắng qua đề án nghiên cứu này.
Theo các thông tin cha chính thức , tôm trắng đợc đa vào Thái Lan năm 1999, quá trình
nuôi cho thấy có năng xuất, mặc dù nuôi dới hình thức nhập giống bất hợp pháp, sau đó
thu hoặc đợc vận chuyển sang Xingapo bán do nhãn của sản phẩm tôm trắng cha có tại
Thái Lan . Cho đến năm 2002, cục thủy sản - DOF chính thức ban hành qui định về nhập
khẩu tôm chân trắng.
Về kĩ thuật nuôi tôm chân trắng; quản lí trại giống; quản lí trại nuôi; quản lí cho ăn; dịch
bệnh và ngăn chặn đợc đề cập rõ trong Tạp chí thủy sản số 4/2005*35
Về các hoạt động nghiên cứu và phát triển nuôi tôm chân trắng đã đợc DOF lên kế hoạch
nh sau:
+Tăng cờng công suất sản xuất tôm chân trắng bố mẹ tại địa phơng.
+ Thiết lập chơng trình cấp giấy chứng nhận cho các trại sản xuất giống.
SPF- giống không mang nguồn bệnh đặc trng. Đây là chơng trình tự nguyện, các trại
giống t nhân có thể xin giấy chứng nhận SPF.
+Các trại giống t nhân đợc phép nhập khẩu tôm chân trắng bố mẹ, phải giữ lại 10% tôm
giống tại 1 khu vực riêng để phát triển đàn giống SPF hoặc SPR- giống kháng đợc nguồn
bệnh đặc trng.
+Lập chơng trình nghiên cứu riêng để phát triển đàn giống SPF hoặc SPR.
+Đánh giá và giám sát môi trờng sống của tôm chân trắng tại các vùng duyên hải.
Tôm chân trắng hiện đang đợc phát triển ở Thái Lan , Mỹ và một số nớc khác. ở Việt
Nam giống tôm này mới đang đợc áp dụng nuôi trồng ở một số khu vực. Vì vậy đây sẽ là
vấn đề mà các nhà quản lí cần phải quan tâm.
2.Về khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên làm góp phần tăng sản lợng tôm xuất khẩu nhanh qua các
năm, vấn đề đầu vào của tôm xuất khẩu cũng gặp phải những trở ngại sau:
Một là: Điều kiện khí hậu, môi trờng nớc ta diễn biến rất thất thờng ảnh hởng đến sự
sinh trởng, phát triển của các loại tôm. Đặc biệt có thể có nững biến động lớn làm thiệt
hại đến sức ngời, sức của.
Hai là: Vấn đề sử dụng hóa chất, kháng sinh cấm kỵ làm giảm sút chất lợng của mặt
hàng tôm xuất khẩu. Đây là nguyên nhân một măt do nhận thức còn hạn chế của các ng
dân họ chỉ biết cái lợi trớc mắt của việc tăng năng suất mà không quan tâm đến tác hại của
việc sử dụng không hợp lí các hóa chất, kháng sinh cấm kỵ trong nuôi trồng thủy sản. Bên
cạnh đó là việc quản lí lỏng lẻo của các cấp chính quyền về vấn đề này. Do đó cần phải
quan tâm hơn nữa để đảm bảo chất lợng tôm không chỉ cho mặt hàng tiêu dùng trong nớc
mà cho cả mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế lớn.
Ba là: Thiếu nguyên liệu sản xuất ở một số địa phơng là khó khăn lớn nhất mang tính
phổ biến ở các địa phơng. Tình trạng này bộc lộ trầm trọng nhất ở khu vực phía bắc và
duyên hải miền trung.
Bốn là: Các cộng đồng ven biển nhìn chung còn nghèo, thiếu vốn đầu t và cơ sơ hạ tầng
sản xuất thủy sản kém: Từ cơ sở ngiên cứu khoa học công nghệ thủy sản, khu vực bảo
tồn biển và bảo tồn thủy sản nội địa, thủy lợi đầu mối, cảng cá và khu tránh trú bão, hệ
thống thông tin quản lí ngành nghề thủy sản. Điều này gây ảnh hởng đến chất lợng nuôi
trồng, khai thác, chế biến các mặt hàng thủy sản, từ đó sẽ tác động lớn đến mặt hàng
tôm xuất khẩu.
Năm là: Về đánh bắt và khai thác còn nhiều bất cập: mức độ khai thác cha hợp lí,
phơng tiện khai thác cha đảm bảo.
Sáu là: Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lí đầu t xây dựng vừa yếu vừa thiếu, cha đủ
điều kiện năng lực theo qui định, tất cả các chủ đầu t đều kiêm nhiệm ; quá trình đầu t từ
chủ trơng đến quản lí xây dựng, quyết toán công trình đều thụ động. Chất lợng các t vấn
dự án khả thi, thiết kế lập tổng dự án còn hạn chế.
Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đợc đánh giá trong năm 2005: Tổng
vốn đầu t từ ngân sách cho phát triển ngành thủy sản là 578,4 tỉ đồng, trong đó vốn do bộ
trực tiếp quản lí là 172 tỉ đòng. Các dự án do bộ trực tiếp quản lí đã hoàn thành khối lợng
ớc đạt 114810 triệu đồng, chỉ bằng khoảng 66,75% kế hoạch, giải ngân khoảng 74,441
triệu đồng, bằng khoảng 43,45% kế hoạch.
Vậy những khó khăn trên cần phải có biện pháp khắc phục kịp thời chúng ta cùng
đề cập đến phần ba của đề án này.
3. Thực trạng của vấn đề đầu vào:
3.1.Thực trạng về nuôi trồng thủy sản:
Hiện nay, các loài chủ lực nh tôm sú, tôm càng xanh đợc tiếp tục tập trung nghiên cứu
hoàn thiện theo hớng sản xuất giống chất lợng cao, sạch bệnh, đồng thời mở rộng chuyển
giao công nghệ sản xuất giống cho các địa phơng, khuyến khích phát triển trại giống tập
trung. Kết quả là công nghệ sản xuất tôm sú đã đợc mở rộng áp dụng từ Nam trung bộ ra
Nam bộ và Bắc bộ. Riêng về tôm sú năm 2003 đạt trên 20 tỉ giống- đây là yếu tố quyết
định mở ra hớng phát triển mạnh mẽ về nghề nuôi tôm sú ở các địa phơng ven biển, phục
vụ nuôi trồng tập trung , qui mô, năng suất cao. Đến năm 2004, với hơn 5000 tại giống
trong cả nớc, đã sản xuất gần 26 tỉ tôm giống PL15, góp phần làm nên con số sản lợng tôm
nuôi trên 290.000 tấn, tăng 22% cả về giá trị và sản lợng so với năm trớc.
Mạng lới trên 50 trại giống tôm càng xanh ở Nam Bộ sản xuất khoảng 60 triệu giống
phục vụ đủ nhu cầu giống của khu vực và hỗ trợ cung cấp cho các địa phơng khác. Đảm
bảo chủ động giống lớn, chất lợng đợc cải thiện tạo điều kiện hình thành và phát triển sản
xuất thủy sản tập trung quy mô lớn, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, tăng tính cạnh tranh
của sản phẩm trên thị trờng quốc tế góp phần mở rộng thị trờng và nâng cao giá trị sản
lợng xuất khẩu thủy sản.
Thành công lớn trong nuôi trồng thủy sản nữa là đã ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật sinh
học phân tử trong phòng và trị bệnh nguy hiểm đối với các loại tôm cá, sử dụng các chế
phẩm sinh học nhằm tăng khả năng chống chịu bệnh và quản lí chất lợng.
Về nuôi tôm nớc lợ, diện tích năm 1999 là 210.448 ha so với năm 2005 là 604.479 ha
với mức tăng trởng bình quân hàng năm là 31,2% đây là tốc độ tăng trởng rất cao do vấn
đề mở rộng diện tích gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. Đối với nuôi tôm nớc lợ – mặn,
sản lợng năm 1999 là 63.644 tấn. Song dới tác dụng của mở rộng diện tích và tăng cờng
đầu t khoa học kĩ thuật và vốn, sản luợng nuôi trông đã đạt 324.680 tấn gấp 5,1 lần đem lại
hiệu quả kinh tế cao. Các tỉnh Nam Trung Bộ thì diện tích nuôi tôm hùm lồng phát triển
mạnh và bớc đầu đợc nuôi tại Quảng Ninh với kết quả đạt đợc là từ 7.290 (1999) với tổng
sản lợng là 425 tấn tăng lên 43.510 lồng với sản lợng là 4.800 tấn và đã chủ động đợc
giống với 3.061 lồng ơm giống, nuôi tôm hùm là hình thức nuôi có vốn đầu t lớn và mang
lại hiệu quả cao nên một số doanh nghiệp và cá nhân nuôi tôm hùm đã thành công nhanh
chóng với mức doanh thu hàng năm hàng tỷ đồng và có những hộ sau khi trừ chi phí vẫn
còn đạt lợi nhuận tiền tỷ – Tôm càng xanh năm 2005 ớc đạt 6.400 tấn trong đó tập trung
tại các tỉnh Tây Nam Bộ, các tỉnh này có sản lợng là 6.612 tấn (93,9%) thu lợi từ 50 – 80
triệu đồng/ha và năng xuất theo khảo sát tại huyện Cao Lãnh, Tam Nông thì năng suất
trung bình đạt từ 1,2 – 2 tấn/ha và cá biệt có những xã năng suất đạt 2,5 tấn/ha và diện
tích nuôi tôm càng xanh trong những năm tiếp theo thì có thể tăng lên nhiều và năng xuất
tiếp tục tăng với tốc độ cao do trình độ ngời nuôi trồng và khả năng áp dụng khoa học kĩ
thuật ngày càng mạnh và có hiệu quả.
Bảng: Sản lợng tôm nuôi trồng so với tổng sản lợng thủy sản nuôi trồng
Chỉ tiêu
Sản lượng (tấn)
2001 2002 2003 2004 2005
Cá 421.019,0 486.420,7 604.401,0 761.600,0 933.500,0
Tôm 154.911,0 186.215,6 237.880,0 281.800,0 330.200,0
Thủy sản
khác 133.960,2 172.173,4 160.814,0 159.100,0 173.700,0
Tổng số 709.891,0 844.809,6 1.003.095,0 1.202.500,0 1.437.400,0
Cơ cấu sản lợng (%)
Cá 59,3 57,6 60,3 63,3 64,9
Tôm 21,8 22 23,7 23,4 13,5
Thủy sản khác 18,9 20,4 16 13,3 12
Tổng số 100 100 100 100 100
( Nguồn tổng hợp từ tổng cục thống kê năm 2004 - 2005)
Biểu đồ cơ cấu sản lợng tôm nuôi trồng so với tổng sản lợng thuỷ sản nuôi trồng.
3.2.Thực trạng về chất lợng các loại tôm:
Đề cập đến vấn đề chất lợng thúy sản. Ông Bửu Huy- giám đốc công ty Afiex ở An
Giang khẳng định: “Thực chất khó khăn lớn nhất của xuất khẩu thủy sản Việt Nam nói
chung là vấn đề chất lợng chứ không phải chuyện phá giá hay không có thị trờng”.
Tình hình phát triển “quá nóng” không kiểm soát đợc diện tích, sản lợng của tôm cá đã
dẫn đến những yếu kém về quản lí chất lợng. Tỷ lệ nhiễm d lợng kháng sinh, hóa chất bị
cấm trong cá nuôi khá cao, tình trạng bơm hóa chất vào tôm cha đợc xử lí một cách triệt để,
khả năng đảm bảo truy xuất nguồn gốc sản phẩm kém do diện tích nuôi còn manh mún,
trình độ sản xuất cha đồng đều đã dẫn đến những bất lợi cho cả hai sản phẩm chủ lực của
thủy sản Việt Nam trớc các rào cản “kĩ thuật” của các nớc cạnh tranh.
Trong chơng trình của VASEP- Đại hội nhiệm kì ba (2005-2001) diễn ra ngày 12/6/2005
ông Hồ Quốc Lựu phát biểu : “Tính an toàn sản phẩm đã trở thành yếu tố cạnh tranh giữa
các nớc xuất khẩu nói chung, từng doanh nghiệp nói riêng. Tôi nghĩ, những bài học xơng
máu đã qua và hiện nay xung quanh vấn đề chất lợng đã nói lên rằng, nếu không có sự liên
kết thật sự thì thủy sản Việt Nam sẽ còn tiếp tục bị trả giá, không chỉ về kinh tế mà còn cả
về môi trờng”.
Thực tế đã chứng minh đợc ảnh hởng mạnh mẽ của vấn đề chất lợng của thủy sản đến
khả năng cạnh tranh của xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Năm 2002 một số lô hàng thủy sản
của Việt Nam xuất khẩu vào EU không đợc an toàn (nhiễm khuẩn, nhi