Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác thị trường khách Thái Lan tại Công ty Lữ hành Hanoitourist

- Sự phát triển mạnh mẽ của nghành công nghiệp du lịch thế giới tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam đặc biệt khi chúng ta gia nhập WTO - Sự gia tăng nhanh chóng của số lượng khách Asean nói chung và khách Thái nói riêng đang làm nóng lên xu hướng tập trung khai thác thị trường các nước Đông Nam Á cũng như thị trường Thái Lan tại Các Công ty Lữ hành Việt Nam - Với Công ty Lữ hành Hanoitourist thị trường khách Thái ngày càng trở thành thị trường đem lại nhiều nguồn lợi cho Công ty - Việc tập trung khai thác thị trường Khách Thái đang là trọng điểm của Mảng thị trường Inbound, tuy nhiên trong quá trình triển khai các kế hoạch khai thác thị trường, vẫn còn có quá nhiều nguồn lực chưa được sử dụng một cách hiệu quả nhất. - Nhận thấy thực tế trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài “ thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác thị trường khách Thái Lan tại Công ty Lữ hành Hanoitourist”

docx97 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3062 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác thị trường khách Thái Lan tại Công ty Lữ hành Hanoitourist, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Lí do chọn đề tài : Sự phát triển mạnh mẽ của nghành công nghiệp du lịch thế giới tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam đặc biệt khi chúng ta gia nhập WTO Sự gia tăng nhanh chóng của số lượng khách Asean nói chung và khách Thái nói riêng đang làm nóng lên xu hướng tập trung khai thác thị trường các nước Đông Nam Á cũng như thị trường Thái Lan tại Các Công ty Lữ hành Việt Nam Với Công ty Lữ hành Hanoitourist thị trường khách Thái ngày càng trở thành thị trường đem lại nhiều nguồn lợi cho Công ty Việc tập trung khai thác thị trường Khách Thái đang là trọng điểm của Mảng thị trường Inbound, tuy nhiên trong quá trình triển khai các kế hoạch khai thác thị trường, vẫn còn có quá nhiều nguồn lực chưa được sử dụng một cách hiệu quả nhất. Nhận thấy thực tế trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài “ thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác thị trường khách Thái Lan tại Công ty Lữ hành Hanoitourist” Phạm vi nghiên cứu Thị trường khách Thái Lan Toàn bộ phạm vị hoạt động kinh doanh của công ty liên quan đến thị Trường khách Thái. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng bảng hỏi, phiếu điều tra, phỏng vấn trực tiếp Sử dụng nguồn số liệu sơ cấp và thứ cấp. Nội dung nghiên cứu Tâm lí và hành vi tiêu dùng của khách Thái Lan Các chính sách triển khai của Công Ty lữ hành Hanoitoursit cho thị trường khách Thái Chương I: cơ sở lí luận và một số vấn đề liên quan đến đề tài Dẫn nhập nội dung : Như chúng ta đều biết hoạt động khai thác thị trường khách du lịch là một quá trình mà trong đó Công ty lữ hành sử dụng nguồn lực của mình tác động vào thị trường khách dưới sự hỗ trợ của các tổ chức trung gian nhằm đưa khách du lịch đến với sản phẩm của mình một cách phù hợp nhất nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của họ đồng thời đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Như vậy đẩy mạnh hoạt động khai thác thị trường khách cũng là một quá trình trong đó Công ty Lữ hành sử dụng một cách hợp lí các nguồn lực của mình trong quá trình khai thác thị trường khách nhằm đạt được các mục đích với một chi phí hợp lí nhất. phần cơ sở lí luận tôi cũng đi theo logic từ vấn đề Công ty lữ hành, khách du lịch , các yếu tố nội tại của khách du lịch (Nhu cầu, hanh vi tiêu dùnh của khách du lịch), cho đến sản phẩm du lịch. 1.1 Công ty Lữ hành & Các nhân tố ảnh hưởng đến việc khai thác khách của công ty lữ hành 1.1.1 Công ty lữ hành 1.1.1.1 Khái niệm công ty lữ hành Đã tồn tại khá nhiều định nghĩa khác nhau về Công ty Lữ hành xuất phát từ các góc độ khác nhau trong việc nghiên cứu các Công ty Lữ hành. Mặt khác bản thân hoạt động du lịch nói chung và lữ hành nói riêng có nhiều biến đổi theo thời gian. Ở mỗi một giai đoạn phát triển, hoạt động lữ hành luôn có những hình thức và nội dung mới. Thời kỳ đầu tiên : Công ty Lữ hành được định nghĩa như là một pháp nhân kinh doanh chủ yếu dưới dạng đại lý, đại diện của các nhà sản xuất ( khách sạn, hang ôtô, tàu biển,…) bán sản phẩm tới tận tay người tiêu dung với mục đích thu tiền hoa hồng. Thời kỳ phát triển cao hơn : Công ty Lữ hành được hiểu không phải là một trung gian thuần tuý, mà còn tự tạo ra các sản phẩm của mình bằng cách tập hợp các sản phẩm riêng rẽ như dịch vụ khách sạn, vé máy bay, ôtô, tàu thuỷ và các chuyến tham quan thành một sản phẩm (chương trình du lịch) hoàn chỉnh và bán cho khách du lịch với một mức giá gộp, đặc biệt Công ty Lữ hành là người có quyền quyết định chất lượng sản phẩm của mình. Ở Việt Nam, theo quy chế quản lý Lữ hành của Tổng cục du lịch thì : “ Doanh nghiệp Lữ hành là đơn vị có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập được thành lập nhằm mục đích sinh lợi bằng việc giao dịch, ký kết hợp đồng du lịch và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch” 1.1.1.2 Phân loại công ty lữ hành Theo cách phân loại của Tổng cục du lịch Việt Nam thì các Công ty Lữ hành gồm hai loại : Công ty lữ hành quốc tế và Công ty Lữ hành nội địa Công ty lữ hành quốc tế có trách nhiệm xây dựng, bán các chương trình du lịch chọn gói hoặc từng phần theo yêu cầu của khách du lịch để trực tiếp thu hút khách đến Việt nam và đưa công dân Việt Nam, người nước ngoài vào cư trú tại Việt Nam đi du lịch nước ngoài, thực hiện các chương trình du lịch đã bán hoặc đã ký hợp đồng uỷ thác từng phần, trọn gói cho Lữ hành nội địa. Công ty lữ hành nội địa có trách nhiệm xây dựng, bán các chương trình du lịch trọn gói hoặc từng phần theo yêu cầu của khách du lịch để trực tiếp đưa công dân Việt nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong lãnh thổ Việt Nam. 1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc khai thác khách của Công ty Lữ hành 1.1.2.1 Các nhân tố khách quan + Điều kiện thị trường khách du lịch (cầu trong du lịch) Nhu cầu du lịch là loại nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con người. Nhu cầu này được hình thành và phát triển trên nền tảng của nhu cầu sinh lý (đi lại) và nhu cầu tâm lý (giao tiếp) trong hệ thống các nhu cầu của con người. Tuy nhiên, nhu cầu du lịch của con người chưa phải là cầu du lịch. Để cho nhu cầu du lịch của cá nhân trở thành cầu thị trường về sản phẩm du lịch thì nó phải thoả mãn ba điều kiện : - Phải có khả năng thanh toán - Phải có thời gian rỗi - phải sẵn sàng mua sản phẩm du lịch. Khi thoả mãn ba điều kiện này thì nhu cầu du lịch của các nhân biểu hiện ở cấp độ nhất định. Nhu cầu du lịch ở cấp độ ý định của tất cả cá nhân ở một không gian và thời gian nhất định tạo ra thị trường khách du lịch hiện tại ở không gian và thời gian đó. Nếu nhu cầu du lịch của các cá nhân chưa thoả mãn một trong ba điều kiện nói trên thì tập hợp lại tạo ra thị trường khách du lịch tiềm năng. Khi mà trình độ sản xuất xã hội càng phát triển, các mối quan hệ xã hội càng hoàn thiện, mức độ toàn cầu hoá càng cao thì nhu cầu về du lịch càng lớn về số lượng và cơ cấu của nó. Cầu trong du lịch được tạo bởi các yếu tố : tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội, các thành phần trong môi trường vĩ mô ở nơi đi du lịch, tính hấp dẫn của sản phẩm du lịch của nơi đến. Tâm lý cá nhân bao gồm : động cơ đi du lịch, nhận thức của cá nhân về du lịch, kinh nghiệm và thái độ của cá nhân đối với nơi đến du lịch. Tâm lý xã hội bao gồm : văn hoá chung, phong tục tập quán, truyền thống, tôn giáo tín ngưỡng, độ tuổi, giới tính, học vấn, nghề nghiệp, lối sống, thị hiếu của nhóm mà cá nhân là thành viên. Các thành phần trong môi trường vĩ mô ở nơi đi du lịch bao gồm : Kinh tế, nhân khẩu, tự nhiên, chính trị - luật pháp, văn hoá xã hội và công nghệ. Các thành phần trong môi trường vi mô ở nơi đi du lịch bao gồm : các nhà cung cấp sản phẩm du lịch cùng với mức độ cạnh tranh của nó, trung gian thị trường và số lượng tiêu dùng du lịch. Tính hấp dẫn của sản phẩm du lịch nơi đến được thể hiện ở ba nhóm : + Nhóm nhân tố cấp 1 : Tự nhiên, văn hoá, kết cấu hạ tầng. + Nhóm nhân tố cấp 2 : Đường lối phát triển du lịch, cung du lịch và chu kỳ sống của sản phẩm du lịch. + Nhóm nhân tố cấp 3 : Marketing, giá cả và tổ chức du lịch. Do phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố tạo cầu cho du lịch nên thị trường có nhiều loại khách du lịch cùng với những đặc điểm tiêu dùng tạo ra các đoạn thị trường mục tiêu khác nhau. Đặc điểm chung của người tiêu dùng du lịch là tính tiện lợi dễ dàng, tính tiện nghi, tính lịch sự chu đáo, tính vệ sinh, tính an toàn cao. Vì vậy, đây là điều kiện mang tính tiền đề cho các doanh nghiệp phát triển các loại hình kinh doanh lữ hành quốc tế, lữ hành nội địa, lữ hành gửi khách, lữ hành nhận khách hoặc kinh doanh lữ hành tổng hợp tuỳ thuộc vào năng lực và trình độ kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. + Điều kiện thị trường sản xuất du lịch (cung trong du lịch) Cung du lịch được hiểu là khả năng cung cấp dịch vụ và hàng hoá nhằm đáp ứng nội dung của cầu du lịch. Nó bao gồm hàng hoá du lịch được đưa ra thị trường. Các nhà sản xuất chính (cung du lịch) là: - Nhà sản xuất dịch vụ lưu trú - Nhà sản xuất dịch vụ ăn uống - Nhà sản xuất dịch vụ tham quan giải trí - Nhà sản xuất dịch vụ khách - Nhà sản xuất hàng hoá phục vụ cho du lịch. Hoạt động kinh doanh lữ hành của doanh nghiệp muốn phát triển được thì phải có sự tham gia đầy đủ của các nhà sản xuất du lịch hay chúng ta thường gọi là nhà cung ứng du lịch. Bởi chính các nhà sản xuất du lịch đảm bảm cung ứng những yếu tố đầu vào để các nhà kinh doanh lữ hành liên kết dịch vụ mang tính đơn lẻ của từng nhà cung ứng và thành dịch vụ mang tính nguyên chiếc và làm tăng giá trị sử dụng của chúng để bán cho khách du lịch với mức giá gộp. Yêu cầu mức giá gộp phải thấp hơn mức giá mà khách du lịch mua từng dịch vụ đơn lẻ gộp lại và tiết kiệm được thời gian, dễ dàng tìm kiếm thông tin, lựa chọn sản phẩm phù hợp với đặc điểm tiêu dùng du lịch của họ. Do vậy nếu thiếu nhà cung cấp dịch vụ đầu vào, số lượng và chất lượng bị hạn chế, mức giá cho các nhà kinh doanh lữ hành cao thì hoạt động khai thác khách của công ty lữ hành sẽ không có cơ sở duy trì và phát triển. Nếu không có mối quan hệ mật thiết giữa các nhà cung cấp thì công ty lữ hành không thể tổ chức được các chuyến đi. Vì các dịch vụ có trong chuyến du lịch không được thực hiện hoặc thực hiện với giá quá cao, khiến khách du lịch không thể hoặc không muốn đặt mua chương trình du lịch của công ty. Nhà cung cấp của doanh nghiệp lữ hành là những tổ chức kinh doanh và phi kinh doanh bảo đảm cung ứng các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp sản xuât tiêu thụ, thực hiện sản phẩm là chương trình du lịch. Nhà cung cấp có thể tăng giá, cung cấp không thường xuyên, hoặc hạ thấp chất lượng sản phẩm cung cấp cho doanh nghiệp làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh chương trình du lịch của doanh nghiệp và do đó ảnh hưởng đến hoạt động khai thác thị trường khách của doanh nghiệp. + Điệu kiện về quan hệ quốc tế hoà bình và hữu nghị Trong nhiều thập kỷ vừa qua du lịch quốc tế đã có sự phát triển mạnh mẽ, xu hướng toàn cầu hoá sản phâm du lịch và thị trường du lịch ngày càng trở nên rõ nét, các mối quan hệ đa phương, song phương giữa các quốc gia trở thành một điều kiện hết sức quan trọng để phát triển du lịch. Khách du lịch ở một quốc gia này muốn đến một quốc gia khác để tiêu dùng sản phẩm du lịch thì trước hết phải có mối quan hệ ngoai giao giữa hai quốc gia đó. Mức độ hoà bình và hữu nghị trong mối quan hệ giữa hai quốc gia được thể chế hoá ở các đường lối chính sách và các ưu đãi ngoại giao mà mỗi quốc gia dành cho nhau. Sự tăng trưởng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam giai đoạn 1990 – 2000 là minh chứng thuyết phục (Từ 250.000 lượt khách năm 1990 lên 2,05 triệu lượt khác năm 2000) đến năm 2004 đạt 2,93 triệu lượt khác, dự kiến năm 2010 đón 5,5 đến 6 triệu lượt khách quốc tế. Mối quan hệ quốc tế hoà bình và hữu nghị giữa các quốc gia trước hết phụ thuộc vào thể chế chính trị của các quốc gia, đặc điểm kinh tế thế giới, giao lưu văn hoá giữa các dân tộc. Từ mối quan hệ này mà tạo điều kiện thuận lợi dễ dàng cho chuyến đi của khách, cửa vào của mỗi quốc gia được mở rộng. Mối quan hệ này Xuất phát từ nhu cầu của con người muốn được sống trong hoà bình, hữu nghị, được tự do đi lại để chiêm ngưỡng, thưởng thức các giá trị thẩm mỹ, để học hỏi và cuối cùng là để nâng cao chất lượng cuộc sống cảu con người. Và do đó khi mà các mối quan hệ hoà bình và hữu nghị được mở rộng sẽ tạo ra du lịch không biên giới làm cho cả cung và cầu du lịch phát triển. Hiện nay, ngành du lịch Việt Nam đã tích cực triển khai, mở rộng các hoạt động hợp tác du lịch. Từ chỗ chưa có vị thế trên trường quốc tế, du lịch Việt Nam đã vươn lên, tham gia chủ động dần trong hội nhập du lịch khu vực và thế giới. + Điều kiện về chính trị và luật pháp của nơi đi và nơi đến du lịch Các doanh nghiệp lữ hành chỉ có thể phát triển được hoạt động kinh doanh chương trình du lịch quôc tế, nội địa khi mà các điều kiện chính trị luật pháp của nơi đi và nơi đến du lịch cho phép. Điều kiện thuận lợi của chính trị và luật pháp cho hoạt động kinh doanh lữ hành của các doanh nghiệp được biểu hiện ở các khía cạnh : - Sự ổn định về chính trị và sự bảo đảm an ninh, an toàn cho người tiêu dùng du lịch và nhà sản xuất du lịch. - đường lối khuyến khích và phát triển du lịch cùng với hệ thống các chính sách, biện pháp đồng bộ để đạt được mục tiêu phát triển du lịch. - Thủ tục hành chính đơn giản, tiện lợi cho việc sản xuất và tiêu dùng du lịch - Quy định về tỷ giá chuyển đổi đơn vị tiền tệ. - Sự đầy đủ, toàn diện và đồng bộ của hệ thống luật pháp từ việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, thực thi pháp luật cho đến việc kiểm tra, thanh tra, giám sát thưc hiện pháp luật của các cơ quan công quyền. - Điều kiện chính trị và luật pháp trên đây tạo ra sự thống nhất trong xã hội để có sự phối kết hợp đồng bộ, thống nhất trong hành động định hướng cho kinh doanh lữ hành quôc tế, kinh doanh lữ hành nội địa của các doanh nghiệp, làm tăng hiệu quả và làm giảm bớt các rủi ro trong kinh doanh do yếu tố chính trị gây ra. 1.1.2.2 Các nhân tố chủ quan + Điều kiện về năng lực và trình độ kinh doanh lữ hành của doanh nghiệp Điều kiện này được thể trên thực lực về đội ngũ nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật, Nguồn tài chính, trình độ quản lý kinh doanh lữ hành của mỗi doanh nghiệp Thứ nhất : Kinh doanh lữ hành muốn thành công trước hết phải nói đến con người tức là đội ngũ lao động trong doanh nghiệp lữ hành. Khác với loại hình kinh doanh khác, kinh doanh lữ hành đòi hỏi phải có đội ngũ lao động chuyên môn, có sức khỏe tốt, hình thức đảm bảo, có phẩm chất tốt, nhiệt tình, hăng say, năng động, tư duy sáng tạo và đặc biệt là tinh thâng trách nhiệm cao. Người lao động được trang bị vốn kiến thức rông trên hầu hết các lĩnh vực của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Với ngoại ngữ và tin học được xem như là công cụ để hành nghề của đội ngũ lao động trong lữ hành. Thứ hai, do đặc điểm và tính chất của sản phẩm lữ hành mà các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành phải được trang bị hệ thống trang thiết bị thu thập, sử lý và phổ biến thông tin theo công nghệ hiện đại Thứ ba : người ta thường nói Tài chính là huyết mạch của nền kinh tế, thật vậy với hoạt động kinh doanh lữ hành nói chung và hoạt động khai thác thị trường khách nói riêng thì nguồn lực về tài chíng luôn là mối quan tâm của doanh nghiệp khi tiến hành các chính sách kinh doanh. Thứ tư, điều kiện để hoạt động kinh doanh lữ hành được tiến hành thuận lợi thì phải có một cơ chế vận hành tổ chức một cách khoa học, đó chính là phương thức tổ chức quản lý kinh doanh của doanh nghiệp hay nói đúng hơn là trình độ quản lý và tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp, chỉ có phương thức quản lý khoa học, hiện đại mới có thể khiến doanh nghiệp có khả năng sử dụng và phát huy một cách hợp lý nguồn lực của chính mình. Ngoài ra còn có rất nhiều các nhân tố có ảnh hưởng tới hoạt động khai thác thị trường khách du lịch của công ty lữ hành với mức độ và cường độ khác nhau, có khi trực tiếp, đôi khi gián tiếp, có khi đơn lẻ có khi lại tổng hợp, tuy nhiên doanh nghiệp cần nắm rõ xu hướng ảnh hưởng của các nhân tố này để có thể sử dụng chúng như những lợi thế so sánh nhằm sử dụng hợp lý nguồn lực và đạt được hiệu quả kinh doanh. 1.2 Khách du lịch & các khái niệm liên quan 1.2.1 Khái niệm khách du lịch Hoạt động du lịch đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhanh chóng được coi là ngành “xuất khẩu vô hình” đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn. Tốc độ tưang thu nhập của ngành du lịch vượt xa nhịp độ tăng trưởng của nhiều ngành kinh tế khác. Để cho ngành du lịch hoạt động và phát triển thì “khách du lịch” là nhân tố quyết định. Chúng ta biết rằng nếu không có hoạt động của khách du lịch thì các nhà kinh doanh du lịch cũng không thể kinh doanh được. Không có khách thì hoạt động du lịch trở nên vô nghĩa. Đứng trên góc độ thị trường thì “cầu du lịch” chính là khách du lịch, còn “cung du lịch” là các nhà cung cấp sản phẩm du lịch. vậy khách du lịch là gì và họ cần nhu cầu gì? Do vậy đã có nhiều khái niệm khác nhau về khách du lịch của các tổ chức và các nhà nghiên cứu để xác định rõ hơn khách du lịch là ai ? + Nhà kinh tế học người Áo – Jozep stemder đã định nghĩa : Khách du lịch là những người đặc biệt, ở lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên, để thoả mãn những nhu cầu cao cấp mà không theo đuổi mục đích kinh tế + Nhà kinh tế người Anh – Olgilvi khẳng định rằng : “Để trở thành khách du lịch cần có hai điều kiên sau : Thứ nhất phải xa nhà một thời gian dưới một năm; thứ hai là phải dùng những khoản tiền kiếm được ở nơi khác” + Định nghĩa khách du lịch có tính chất quốc tế đã hình thành tại hội nghị Roma du Liên hợp quốc tổ chức vào năm 1963 : “Khách du lịch quốc tế là người lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian 24h hay hơn” + Theo pháp lệnh du lịch của Việt Nam (điều 20) : Khách du lịch gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế. + Khách du lịch nội địa là công dân Việt nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. + Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam đinh cư ở nước ngoài vào Việt Nam đi du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch. Ngoài ra còn có các định nghĩa khác về khách du lịch như định nghĩa của hội nghị quốc tế về du lịch ở Hà Lan 1989 : “khách du lịch quốc tế là những người đi hoặc sẽ đi thăm quan một nước khác, với các mục đích khác nhau trong khoảng thời gian nhiều nhất là 3 tháng nếu trên 3 tháng, phải được cấp phép gia hạn. Sau khi kết thúc thời gian tham quan, lưu trú, du khách bắt buốc phải rời khỏi đất nước đó để trở về hoặc đến nước khác; Khách du lịch nội địa là những người đi xa nhà với khoảng cách ít nhất là 50 dặm vì các lí do khác nhau trừ khả năng thay đổi chỗ làm việc trong khoảng thời gian cùng ngày hoặc qua đêm”. 1.2.2 Phân loại khách du lịch Ngoài việc nhận thức rõ về định nghĩa khách du lịch quốc tế việc nghiên cứu cần có sự phân loại chính xác, đầy đủ. Đó là điều thuận lợi cho việc nghiên cứu, thống kê các chỉ tiêu về du lịch cũng như định nghĩa. Sau đây là một số cách phân loại khách du lịch. + Uỷ ban thông lệ Liên hợp quốc đã chấp nhận các phân loại sau, các định nghĩa chính của các phân loại: Khách tham quan du lịch là những cá nhân đi đến một đất nước khác ngoài nơi ở thường xuyên của họ trong một khoảng thời gian không quá 12 tháng với mục đích chủ yếu không phải kiếm tiền trong phạm vi lãnh thổ mà họ đến. Khách du lịch quốc tế là tất cả những khách du lịch đã ở lại đất nước mà họ đến ít nhất là một đêm. Khách tham quan trong ngày là tất cả những khách tham quan mà không ở lại qua đêm tại đất nước mà họ đến. Khách quá cảnh là khách không rời khỏi phạm vi khu vực quá cảnh trong thời gian chờ đợi giữa các chuyến bay tại sân bay hoặc tại các khu vực nhà ga khác. + Theo định nghĩa khách du lịch của pháp lệnh du lịch ban hành ngày 8/2/1999. Khách du lịch có hai loại: - Khách du lịch nội địa (*). - Khách du lịch quốc tế (*). Bên cạnh các phân loại này còn có các cách phân loại khác. + Phân loại khách du lịch theo nguồn gốc dân tộc: Cơ sở của việc phân loại này xuất phát từ yêu cầu của nhà kinh doanh du lịch cần nắm được nguồn gốc khách. Qua đó mới hiểu được mình đang phục vụ ai? họ thuộc dân tộc nào? để nhận biết được tâm lý của họ để phục vụ họ một cách tốt hơn. + Phân loại khách du lịch theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp: Cách phân loại này sẽ cho phép nhà cung cấp khám phá ra các yêu cầu cơ bản và những đặc trưng cụ thể về khách du lịch. + Phân loại khách theo khả năng thanh toán: Xác định rõ đối tượng có khả năng thanh toán cao hay thấp để cung cấp dịch vụ một cách tương ứng. Đây chỉ là một số tiêu thức phân loại khác du lịch. Mỗi một tiêu thức đều có những ưu nhược điểm riêng khi tiếp cận theo một hướng cụ thể. Cho nên cần phối hợp nhiều cách phân loại khi nghiên cứu khách du lịch. Khi nghiên cứu khái niệm và phân loại khách du lịch cho phép chúng ta từng bước thu thập một cách đầy đủ, chính xác các thông tin về khách du lịch. Tạo tiền đề cho việc hoạch ra các chính sách chiến lược kế hoạch Marketing của doanh nghiệp.
Luận văn liên quan