Đề tài Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam

Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21 chứng kiến sự tăng trưởng ngoạn mục của ngành Tài chính – Ngân hàng, trong đó ấn tượng nhất là sự phát triển của hệ thống Ngân hàng Thương mại. Theo thời gian, hệ thống này được mở rộng về quy mô, đa dạng về loại hình kinh doanh, phong phú về sản phẩm và chất lượng ngày càng được nâng cao. Nếu như hình thức ngân hàng từ thời sơ khai chỉ đảm nhận vai trò cất giữ tài sản thì ngày nay hoạt động kinh doanh của ngân hàng vô cùng phong phú: cung cấp dịch vụ, tín dụng, đầu tư. Trong đó hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại nguồn thu nhập lớn nhất. Song theo lẽ thường, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, đây cũng chính là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng mà biểu hiện của nó chính là nợ xấu.

doc64 trang | Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 11564 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21 chứng kiến sự tăng trưởng ngoạn mục của ngành Tài chính – Ngân hàng, trong đó ấn tượng nhất là sự phát triển của hệ thống Ngân hàng Thương mại. Theo thời gian, hệ thống này được mở rộng về quy mô, đa dạng về loại hình kinh doanh, phong phú về sản phẩm và chất lượng ngày càng được nâng cao. Nếu như hình thức ngân hàng từ thời sơ khai chỉ đảm nhận vai trò cất giữ tài sản thì ngày nay hoạt động kinh doanh của ngân hàng vô cùng phong phú: cung cấp dịch vụ, tín dụng, đầu tư... Trong đó hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại nguồn thu nhập lớn nhất. Song theo lẽ thường, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, đây cũng chính là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng mà biểu hiện của nó chính là nợ xấu. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, một số ngân hàng thương mại đã coi chính sách mở rộng tín dụng là một giải pháp để chiếm lĩnh thị phần, thu hút khách hàng và tìm kiếm lợi nhuận. Do vậy, năm 2009-2010 là giai đoạn tăng trưởng tín dụng quá nóng của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Việc cạnh tranh giữa các ngân hàng trở lên gay gắt, các tiêu chuẩn về cấp tín dụng bị hạ thấp để thúc đẩy tăng trưởng. Hệ lụy của nó là những khoản nợ xấu tiềm ẩn đã lâu nay như tảng băng chìm đã trồi lên mặt nước và trở thành vấn đề nhức nhối của ngành ngân hàng Việt Nam. Những khoản vay không thu hồi được cả gốc và lãi đúng hạn ngày càng lớn, tỷ lệ nợ xấu ngày càng gia tăng đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng bất động sản, đã có lúc đe dọa tới tính thanh khoản của ngân hàng. Việc xử lý và hạn chế nợ xấu là một yêu cầu cấp thiết, có vai trò sống còn của ngành ngân hàng nước ta trong suốt những năm gần đây. Được ví như là “cục máu đông” của nền kinh tế, nợ xấu ngân hàng đã và đang để lại những hậu quả nghiêm trọng cho sự phát triển và tăng trưởng của toàn nền kinh tế. Là một trong các ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam cũng không nằm ngoài vào guồng quay đó. Bị đánh giá là một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu khá cao so với các ngân hàng có cùng quy mô liệu có phải là một dấu hiệu đi xuống của ngân hàng? Thực tế về tình hình nợ xấu của ngân hàng trong những năm gần đây và biện pháp mà ngân hàng sử dụng để đối phó là gì...? Để làm sáng tỏ những vấn đề này, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam” Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, chuyên đề được kết cấu theo 03 chương như sau” Chương 1: Những vấn đề cơ bản về nợ xấu trong hoạt động tín dụng ở các ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng nợ xấu và cá biện pháp xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam – Vietcombank Chương 3: Giải pháp khắc phục nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Vietcombank Bài viết là thành quả của tác giả thông qua tìm hiểu thực tế tại ngân hàng và qua các phương tiện truyền thông..., do vậy trong nội dung trình bày còn nhiều thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý từ phía các thầy cô để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Trân trọng cảm ơn. Hà Nội, ngày 25 tháng 12 năm 2013 Người trình bày. Lê Thị Duyên CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG Ở CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Tín dụng ngân hàng và rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Khái niệm rủi ro tín dụng. Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì “Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng hoặc các định chế tài chính) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.” Như vậy, bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi giữa một bên là ngân hàng và một bên là người đi vay. Đây là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn theo thỏa thuận giữa hai bên. Trong hoạt động của ngân hàng thì đây là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Có thể định nghĩa rủi ro trong hoạt động tín dụng như sau: Theo Khoản 1 Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: “ Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của NHTM như: hoạt động bảo lãnh, tài trợ ngoại thương, cho thuê tài chính. Các rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Rủi ro tín dụng Rủi ro giao dịch Rủi ro danh mục Rủi ro lựa chọn Rủi ro đảm bảo Rủi ro nghiệp vụ Rủi ro nội tại Rủi ro tập trung Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh, rủi ro tín dụng được phân loại như sau: Rủi ro giao dịch: Rủi ro giao dịch là rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay. Rủi ro giao dịch được chia là ba loại là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảm bảo và rủi ro nghiệp vụ. Rủi ro lựa chọn: Là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng khi ngân hàng lựa chọn những phương án hiệu quả thấp để cho vay Rủi ro đảm bảo: Là rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều kiện trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, các hình thức bảo đảm và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo. Rủi ro nghiệp vụ: Là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc xử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề. - Rủi ro danh mục: Rủi ro danh mục là loại rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong việc quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, bao gồm hai loại là rủi ro nội tại và rủi ro tập trung. Rủi ro nội tại: Là rủi ro xuất phát từ các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Rủi ro tập trung: Là loại rủi ro tín dụng do ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế hoặc cùng một địa lý nhất định hoặc cùng một loại hình cho vay có độ rủi ro cao Nợ xấu tại các Ngân hàng Thương mại Khái niệm nợ xấu Tín dụng là hoạt động luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, hoạt động tín dụng còn được xem như một nghiệp vụ quản trị rủi ro để sinh lợi trong kinh doanh ngân hàng. Điều này có thể hiểu là để kiếm được lợi nhuận từ hoạt động tín dụng các ngân hàng buộc phải chấp nhận những tổn thất có thể gặp phải trong tương lai. Những tổn thất này có thể là việc ngân hàng bị thất thoát vốn do không thu hồi được hoặc không thu hồi hết những khoản tín dụng đã cấp ra . Và khi một khoản vay không thể thu hồi hay có nguy cơ không thể thu hồi toàn bộ nợ gốc và lãi thì sẽ hình thành nên nợ xấu của ngân hàng. Hiện nay,có nhiều quan điểm khác nhau về nợ xấu, sau đây là một số quan điểm về nợ xấu đang được áp dụng trên thế giới và Việt Nam. Theo quan điểm của quốc tế Theo một số tiêu chí của NHTW Liên minh Châu Âu: Nợ xấu trong hoạt động kinh doanh của NHTM không chỉ có những khoản vay quá hạn thông thường không có khả năng thu hồi theo hợp đồng mà còn có các khoản nợ chưa quá hạn nhưng tiền ẩn các rủi ro dẫn đến việc có thể không thanh toán đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng. Theo quan điểm của Phòng thống kê – Liên hiệp quốc: Về cơ bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc trả gốc trên 90 ngày, hoặc các khoản trả lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc trả chậm theo thỏa thuận hoặc các khoản thanh toán đã quá hạn 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn đến nghi ngờ vể khả năng sẽ được thanh toán đầy đủ. Theo chuẩn mực quốc tế - IAS: Nợ xấu là những khoản nợ quá hạn trên 90 ngày và/hoặc khả năng trả nợ nghi ngờ Ngoài ra hiện nay còn có định nghĩa mới về nợ xấu theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) và IAS 39 vừa được chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) công bố vào tháng 12 năm 1999 và sau 2 lần chỉnh sửa vào năm 2000 và năm 2003 và được khuyến cáo áp dụng vào đầu năm 2005. Về cơ bản IAS 39 chỉ chú trong tới khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc chưa quá hạn. Phương pháp để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thường là phương pháp phân tích dòng tiền tương lai hoặc xếp hạng khoản vay (xếp hạng khách hàng). Hệ thống này được coi là chính xác về mặt lý thuyết nhưng việc áp dụng vào thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy nó đang được ủy ban kế toán quốc tế tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh. Theo quan điểm Việt Nam Nợ xấu theo khoản 6, điều 2 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD ban hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của NHNN Việt Nam Việt Nam “ là các khoản nợ thuộc các nhóm nợ dưới tiêu chuẩn ( nhóm 3), nợ nghi ngờ ( nhóm 4) và nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) Ngoài ra theo điều 13 của quyết định này cũng đề cập tới nợ xấu “Khi đến kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn và không được điều chỉnh kì hạn nợ gốc hoặc lãi, không được gia hạn nợ gốc hoặc lãi, thì tổ chức tín dụng chuyển toàn bộ số dư nợ này sang nợ xấu” Phân loại nợ xấu Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 phân loại nợ thành 5 loại theo 2 phương pháp định tính và định lượng. * Phương pháp định lượng - Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn bao gồm nợ trung hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán. - Nhóm 2 Nợ cần chú ý bao gồm nợ quá hạn < 90 ngày và nợ có cấu lại thời hạn nợ. - Nhóm 3 Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 -180 ngày người nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn < 90 ngày. - Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 180 - 360 ngày. - Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn bao gồm nợ quá hạn > 360 ngày và nợ cơ cấu thời hạn trả nợ > 180 ngày người nợ khoanh chờ chi phí xử lý. * Phương pháp định tính Nợ cũng được phân thành 5 nhóm tương ứng như phương pháp định lượng, nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro và tổ chức tín dụng được ngân hàng nhà nước chấp nhận. - Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn. - Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ. - Nhóm 3 Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi cho đến khi đến hạn. - Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh là có khả năng tổn thất cao - Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi, mất vốn. Trong đó nợ từ nhóm 3 -5 là nợ xấu, các khoản nợ xấu này là yếu tố chủ yếu gây ra rủi ro tín dụng. Nguyên nhân gây ra nợ xấu Một thực tế cho thấy rằng, cho dù quá trình xét duyệt cho vay của cán bộ tín dụng có cẩn thận, kĩ lưỡng đến đâu đi nữa nhưng vẫn không tránh khỏi rủi ro về nợ xấu. Vì vậy, nguyên nhân gây ra nợ xấu tại các NHTM đến từ hai phía: chủ quan của ngân hàng và khách quan từ phía khách hàng vay vốn và tác động của môi trường bên ngoài. Nguyên nhân chủ quan từ phía NHTM. Do sự yếu kém về trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng dẫn đến không có khả năng nhận diện rủi ro. Sự sa sút về đạo đức của bộ phận quản lý và nhân viên tín dụng, thiếu tinh thần trách nhiệm, lợi dụng quyền hạn để tư lợi. Hiệu quả của quản trị kém, các chính sách tín dụng đặt ra không hợp lý, không kịp thời hoặc không theo kịp với thực tế. Hệ thống truyền tải thông tin còn chậm, chưa hoàn thiện dẫn đến việc thẩm định, phân tích bị sai lệch, đánh giá sai về khả năng trả nợ của khách hàng và xu hướng phát triển của kinh tế Quy trình cấp tín dụng không hợp lý: vi phạm quy tắc bốn mắt, cán bộ tín dụng làm việc không đúng thẩm quyền, thực hiện chưa nghiêm túc hoặc chưa đúng các quy định cho vay, đánh giá sai về khả năng sử dụng vốn và khả năng trả nợ của khách hàng. Hiệu quả của công tác tổ chức, kiểm tra, giám sát nội bộ của ngân hàng còn chưa chặt chẽ, kém hoàn thiện và chưa độc lập, chưa thực hiện đúng chức năng,nhiệm vụ hoặc cố tình sai phạm. Chưa có sự ràng buộc nghiêm khắc về trách nhiệm đối với người thực hiện công tác tín dụng, chế tài xử phạt chưa nghiêm hoặc kém minh bạch. - Các NHTM quá chú trọng vào mục tiêu lợi nhuận, gây nên tình trạng tăng trưởng tín dụng nóng. Việc chạy đua lãi suất huy động đẩy lãi suất cho vay lên cao, gây ra tâm lý thờ ơ của các doanh nghiệp mạnh khi họ có thể sử dụng nguồn vốn khác rẻ hơn. Các khách hàng còn lại được đưa vào diện nghi vấn về khả năng quản lý, kinh doanh để trả nợ cho Ngân hàng. - “ Để quá nhiều trứng vào trong một giỏ”: Các khoản cho vay của Ngân hàng tập trung vào những lĩnh vực có độ rủi ro cao, khiến cho danh mục nợ vay thiếu đi sự da dạng; từ đó, khả năng phân tán rủi ro của Ngân hàng sẽ giảm đi. Công tác quản lý và đánh giá tài sản đảm bảo kém. Nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng *Nguyên nhân chủ quan của khách hàng: - Trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của khách hàng còn hạn chế, sử dụng vốn vay không đúng mục đích, tiền vay về không có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, dẫn đến doanh nghiệp vay vốn làm ăn kém hiệu quả, nợ Ngân hàng tăng. - Doanh nghiệp thiếu thiện chí trả nợ, cố ý không cung cấp đầy đủ hoặc có hành vi che giấu thông tin trong suốt quá trình xin cấp tín dụng và sử dụng vốn vay, thực hiện việc đi vay ở nhiều tổ chức tín dụng. - Tình hình tài chính của doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch trong việc xử lý các loại giấy tờ, sổ sách kế toán - Doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn vay quá lớn trong cấu trúc vốn của mình, sử dụng vốn sai mục đích ... nên không có khả năng thu hồi vốn *Nguyên nhân khách quan của khách hàng: - Doanh nghiệp vay vốn gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình: thiên tai, hoả hoạn, chiến tranhvà đặc biệt là tác động của khủng hoảng kinh tế trong khu vực và trên thế giới, do vậy việc sử dụng vốn vay không đạt hiệu quả, có thể mất hoàn toàn vốn. - Doanh nghiệp gặp phải những đổi thay trong kinh doanh không thể lường trước được như sự thay đổi về giá cả, nhu cầu thị trường, lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất, sự thay đổi về môi trường pháp lý hay chính sách của Chính phủ khiến doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn tài chính không thể khắc phục được. Dấu hiệu nhận biết của nợ xấu Nhóm nợ xấu phát sinh từ phía khách hàng Dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng bao gồm hai nhóm chính thể hiện trong mối quan hệ giữa khách hàng với Ngân hàng và phương thức quản lý, tình hình tài chính, hoạt động của khách hàng. Thứ nhất: Có những biểu hiện không bình thường trong mối quan hệ giữa khác hàng với Ngân hàng như: - Khách hàng nợ tìm mọi cách để lần tránh, không cho tiếp xúc liên lạc được hoặc rất nhiều lần hứa và cam kết nhưng không thanh toán. - Khách hàng gây khó khăn cho Ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất. Doanh nghiệp cố trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu hoặc không có các báo cáo về lưu chuyển tiền tệ mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục. .- Đề nghị gia hạn, điều chỉnh định kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về việc gia hạn hay điều chỉnh kỳ hạn nợ .- Có sự sút giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại Ngân hàng; xuất hiện những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc độ và tổng mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng. - Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu vay các khoản vượt quá nhu cầu dự kiến.Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn vay với giá cao với mọi điều kiện. - Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán, trao đổi hoặc đã biến mất hoặc không còn tồn tại. Thứ hai: Xuất hiện các dấu hiệu bất thường liên quan tới phương pháp quản lý Những dấu hiệu này tác động trực tiếp tới chất lượng khoản tín dụng nhưng với tốc độ chậm hơn. Chúng không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ của cán bộ tín dụng, bao gồm: - Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng. Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh toán hay mức độ hoạt động của khách hàng .- Xuất hiện ngày càng nhiều các chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột biến trong chi phí quảng cáo, tập trung quá nhiều chi phí để gây ấn tượng như thiết bị văn phòng hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền. - Thay đối thường xuyên tổ chức của ban điều hành. Xuất hiện mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý. - Do áp lực nội bộ, doanh nghiệp phải tung ra thị trường các sản phẩm, dịch vụ quá sớm khi các sản phẩm chưa đạt được các điều kiện cần thiết hoặc đặt ra những hạn mức thời gian, doanh số không hợp lý - Thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh bất ngờ xảy ra và có ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh của khách hàng. Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ phía ngân hàng Rủi ro có thể phát sinh từ phía khách hàng nhưng cũng có thể là bắt nguồn từ phía Ngân hàng. Nếu là rủi ro do Ngân hàng gây ra thì ta có thể nhận thấy thông qua một số các dấu hiệu như sau: - Có sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng. - Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính đảm bảo của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền lớn hoặc các lợi ích do khách hàng đem lại từ khoản tín dụng được cấp. - Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt qua khả năng và năng lực kiểm soát của Ngân hàng. - Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra chẳng hạn như sáp nhập, thay đổi địa vị pháp lý từ chi nhánh lên công ty con hạch toán độc lập... - Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng mập mờ, không rõ ràng, không rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay; cán bộ tín dụng cố ý thoả hiệp các nguyên tắc tín dụng với khách hàng mặc dù biết có rủi ro tiềm ẩn, hồ sơ còn thiếu về mặt pháp lý để chứng minh cho khoản nợ là phù hợp, thiếu hóa đơn, chứng từ. - Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc phân đoạn ưu tiên . - Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá: giảm thấp lãi suất hoặc phí dịch vụ hay giữ chân khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ không quan hệ với tổ chức tín dụng khác... Ảnh hưởng của nợ xấu tới các ngân hàng 1.2.5.1. Tác động của nợ xấu tới hoạt động của các ngân hàng - Nợ xấu ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng: Không thu hồi đủ vốn đã bỏ ra cho vay khiến ngân hàng bị giảm lợi nhuận, thua lỗ do bị thâm hụt nguồn vốn. Đến một mức nào đó ngân hàng không thể trả tiền cho người gửi tiền khi đến hạn. Nếu trình trạng này kéo dài liên tục thì ngân hàng lâm vào trình trạng mất khả năng thanh toán - Nợ xấu cao làm giảm uy tín của ngân hàng dẫn đến việc thu hút nguồn vốn để phục vụ kế hoạch mở rộng kinh doanh khó khăn và hạn chế khả năng cho vay của ngân hàng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả kinh doanh. - Nợ xấu làm giảm lợi nhuận của ngân hàng do ngân hàng phải vay mượn các nguồn vốn với chi phí cao để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Nợ xấu cao cũng làm cho vòng tuần hoàn vốn chậm lại, giảm hiệu quả sử dụng vốn dẫn đến giảm lợi nhuận. - Nợ xấu có thể làm phá sản ngân hàng và làm giảm khả năng hội nhập 1.2.5.2.Tác động tới khách hàng. - Nợ xấu là gánh nặng buộc người vay phải giải quyết trong tình trạng tài chính không tốt, tạo áp lực trả n
Luận văn liên quan