Đề tài Thực trạng và một số đề xuất để cải thiện bản thân các nhà lãnh đạo doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trong doanh nghiệp, nhà lãnh đạo được xác định từ vị trí, nhiệm vụ và hoạt động của họ đối với doanh nghiệp. Nhà lãnh đạo là người có vị trí dẫn đầu tại cấp độ lãnh đạo mà họ đảm nhiệm trong doanh nghiệp. Họ là người đại diện cho doanh nghiệp trước pháp lý, trước lợi ích chung của doanh nghiệp và kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp đạt được. Họ duy trì và phát triển doanh nghiệp trong môi trường kinh tế cạnh tranh, ảnh hưởng đến tính hiệu quả của tài chính, cách phát sinh tiền lời cho đơn vị, nâng cao năng suất và hiệu quả lao động, sự hài lòng của nhân viên và khách hàng Nói cách khác, một nhà lãnh đạo là một nhà quản trị. Theo khía cạnh này, thì ta có được định nghĩa sau: Quản trị viên là tên gọi chung để chỉ những người hoàn thành mục tiêu thông qua và bằng người khác. Quản trị viên thực hiện việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra việc phân bổ các nguồn lực con người, vật lực, tài chính và thông tin để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Chức danh quản trị viên có thể khác nhau tùy thuộc vào phạm vi trách nhiệm, lĩnh vực phụ trách và tính chuyên môn hóa, họ có thể là tổng giám đốc điều hành, chủ tịch, trưởng phòng, quản trị sản phẩm, quản đốc phân xưởng, giám sát viên.

doc36 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2151 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và một số đề xuất để cải thiện bản thân các nhà lãnh đạo doanh nghiệp vừa và nhỏ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lý thuyết liên quan: Tổng quan về DNNVV Khái niệm DNNVV Đặc điểm, vai trò, thuận lợi và bất lợi của DNNVV ở Việt Nam Thực trạng DNNVV ở Việt Nam Nhà lãnh đạo: Khái niệm chủ DN, DNNVV Những phẩm chất cần phải có của 1 chủ DNNVV Thực trạng các chủ DNNVV ở Việt Nam hiện nay Điểm mạnh của các chủ DNNVV ở Việt Nam hiện nay Điểm yếu của các chủ DNNVV ở Việt Nam hiện nay Một số đề xuất để cải thiện bản thân các nhà lãnh đạo DNNVV Liên hệ thực tế Thông tin về DN Thông tin về nhà lãnh đạo DN I. Lý thuyết liên quan Tổng quan về Doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa Theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP, doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên). Bảng sau đây chỉ rõ các qui định cụ thể đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của Chính phủ. Bảng 1: Quy định về DNNVV của Chính Phủ Quy mô Khu vực  Doanh nghiệp siêu nhỏ  Doanh nghiệp nhỏ  Doanh nghiệp vừa    Số lao động  Tổng nguồn vốn  Số lao động  Tổng nguồn vốn  Số lao động   I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản  10 người trở xuống  20 tỷ đồng trở xuống  từ trên 10 người đến 200 người  từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng  từ trên 200 người đến 300 người   II. Công nghiệp và xây dựng  10 người trở xuống  20 tỷ đồng trở xuống  Từ trên 10 người đến 200 người  từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng  từ trên 200 người đến 300 người   III. Thương mại và dịch vụ  10 người trở xuống  10 tỷ đồng trở xuống  từ trên 10 người đến 50 người  từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng  từ trên 50 người đến 100 người   (Nguồn: Nghị định 56/2009/NĐ-CP, ban hành ngày 30.6.2009) Để đảm bảo tính phù hợp với đặc thù của từng ngành, đảm bảo tính phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế, khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam đã có sự phân biệt cho các nhóm nhành nghề riêng biệt. Cụ thể, qui định về doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc khu vực sản xuất có sự khác biệt so với qui định về doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc lĩnh vực thương mại. Đặc điểm, vai trò, thuận lợi và bất lợi DNNVV Việt Nam Đặc điểm  Có nguồn vốn hạn chế    Thường hướng vào những lĩnh vực phục vụ trực tiếp đời sống, những sản phẩm có sức mua cao, dung lượng thị trường lớn    Cơ sở hạ tầng đơn giản, ít máy móc thiết bị công nghệ cao    Nguồn nhân lực hạn chế về số lượng và về mặt trình    Cơ cấu tổ chức của các DNNVV luôn đơn giản và gọn nhẹ   Vai trò  Tạo công ăn việc làm    Đóng góp vào GDP    Giúp tăng ngân sách cho nhà nước    Tạo ngoại tệ thông qua xuất khẩu    Giữ gìn và phát triển các ngành nghề truyền thống    Doanh nghiệp nhỏ và vừa là môi trường đào tạo các doanh nhân trẻ    DN nhỏ và vừa là cơ sở kinh tế ban đầu cho các DN lớn   Thuận lợi  Dễ dàng thành lập, khởi sự tại Việt Nam    Khả năng thích ứng nhanh với những biế động của thị trường    Dễ dàng thu hút lao động với chi phí thấp    Dễ phát huy được bản chất hợp tác xã sản xuất    Dễ phát huy được bản chất hợp tác xã sản xuất    Ít xảy ra xung đột giữa người lao động và người sử dụng lao động    Có được sự hỗ trợ đặc biệt của nhà nước   Bất lợi  Khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng    Quy mô DN hạn chế và thiếu tính bền vững    Thiếu cơ sở hạ tầng    Trinh độ của nhà quản trị kém    Gặp khó khăn trong việc tiếp cận công nghệ mới    Thương hiệu không có tiếng   Thực trạng DNNVV tại Việt Nam những năm qua Kể từ khi có chính sách Đổi Mới, thành phần kinh tế tư nhân - mà một trong những đại diện chính là lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa - đã ra đời và phát triển. Theo thời gian, lực lượng doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nói chung và lực lưọng doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng đã không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, ngày càng đóng góp nhiều vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và giữ vai trò ngày càng quan trọng trong kinh tế Việt Nam. Sự bùng nổ và lớn mạnh của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nói chung và của doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng trong thập niên qua thể hiện rõ ở số lượng doanh nghiệp ngày càng tăng. Bảng 2.1 và Biểu đồ 2.1 sau đây cho thấy sự phát triển nhanh chóng đó. Bảng 2: Số lượng doanh nghiệp đăng ký thuộc khu vực kinh tế tư nhân  2000  2001  2002  2003  2004  2005  2006  2007  2008  2009   Số lượng DN  14.482  19.773  21.464  27.653  37.099  39.659  45.754  59.150  65.318  83.000   Tốc độ tăng hàng năm (%)  -  37  9  29  34  7  15  29  10  27   Biểu đồ 1: Số lượng doanh nghiệp đăng ký theo biểu đồ cột  (Nguồn: Trung tâm Thông tin, Cục Phát triển Doanh nghiệp, Bộ KH&ĐT) Như vậy, tốc độ tăng bình quân chung của số lượng doanh nghiệp đăng ký thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong 10 năm qua đạt mức 19% mỗi năm. Đặc biệt, sau hai mốc thời gian (năm 1999 và 2005), số lượng doanh nghiệp đăng ký đã có tốc độ tăng khá đột biến. Đây là một tín hiệu tích cực bởi vì trong khi số lượng doanh nghiệp đăng lý thuộc khu vực kinh tế tư nhân tăng lên nhanh chóng thì số lượng doanh nghiệp thuộc các khu vực kinh tế khác có xu hướng thu hẹp. Lực lượng doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân cũng như lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ phát triển về mặt số lượng mà còn phát triển cả về mặt chất lượng. Sự phát triển về mặt chất lượng được thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, tiêu chí chung nhất phản ánh sự phát triển đó là mức độ đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nói chung và các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng vào tổng sản phẩm quốc nội. Bảng 2.2 sau đây thể hiện cho sự đóng góp đó. Bảng 3: Doanh thu thuần của các doanh nghiệp (Đơn vị tính: Tỷ VND)  2005  2006  2007  2008  2009  2010 (Dự kiến)   Tổng doanh thu thuần  2.157.785  2.684.341  3.459.803  5.315.444  6.416.545  7.123.435   Doanh thu các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân  851.002  1.126.356  1.635.266  2.973.456  3.744.452  4.056.475   Doanh thu các DN NVV  729.913  969.295  1.415.601  2.596.072  2.887.445  3.276.780   Tỷ trọng tổng doanh thu của DNNVV/Tổng doanh thu thuần  34%  36%  40%  49%  45%  46%   (Nguồn: Niên giám thống kê 2010, Tổng cục Thống kê) Theo số liệu ở Bảng 2.2, lực lượng doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nói chung và các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Điều đó được thể hiện qua tỷ trọng của doanh thu thuần của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên tổng doanh thu thuần của tất cả các doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế. Tính bình quân, tỷ trọng đó đạt gần 42%/năm. Đặc biệt, năm 2005, con số này đạt gần 50%. Điều quan trọng là tỷ trọng doanh thu thuần của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên tổng doanh thu thuần của toàn bộ nền kinh tế có xu hướng tăng đều qua các năm, thể hiện vai trò quan trọng của lực lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 2. Nhà lãnh đạo 2.1. Khái niệm về nhà lãnh đạo Doanh nghiệp (chủ doanh nghiệp) Trong doanh nghiệp, nhà lãnh đạo được xác định từ vị trí, nhiệm vụ và hoạt động của họ đối với doanh nghiệp. Nhà lãnh đạo là người có vị trí dẫn đầu tại cấp độ lãnh đạo mà họ đảm nhiệm trong doanh nghiệp.. Họ là người đại diện cho doanh nghiệp trước pháp lý, trước lợi ích chung của doanh nghiệp và kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp đạt được. Họ duy trì và phát triển doanh nghiệp trong môi trường kinh tế cạnh tranh, ảnh hưởng đến tính hiệu quả của tài chính, cách phát sinh tiền lời cho đơn vị, nâng cao năng suất và hiệu quả lao động, sự hài lòng của nhân viên và khách hàng… Nói cách khác, một nhà lãnh đạo là một nhà quản trị. Theo khía cạnh này, thì ta có được định nghĩa sau: Quản trị viên là tên gọi chung để chỉ những người hoàn thành mục tiêu thông qua và bằng người khác. Quản trị viên thực hiện việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra việc phân bổ các nguồn lực con người, vật lực, tài chính và thông tin để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Chức danh quản trị viên có thể khác nhau tùy thuộc vào phạm vi trách nhiệm, lĩnh vực phụ trách và tính chuyên môn hóa, họ có thể là tổng giám đốc điều hành, chủ tịch, trưởng phòng, quản trị sản phẩm, quản đốc phân xưởng, giám sát viên... Tại các Doanh nghiệp lớn Nhà lãnh đạo thực chất là một nhà quản trị cấp cao. Nhà quản trị cấp cao cần phải có kỹ năng nhận thức vững vàng. Kỹ năng nhận thức cho phép nhà quản trị cấp cao xử lý lượng lớn thông tin cả từ môi trường bên ngoài và bên trong tổ chức và vận dụng những thông tin đó. Quản trị viên cấp cao dành nhiều thời gian (84%) cho chức năng hoạch định, tổ chức và lãnh đạo. Họ dành nhiều thời gian cho chức năng lãnh đạo với các nhân vật chủ yếu trong tổ chức hơn là cho chính họ. Quản trị viên cấp cao cũng có trách nhiệm quản lý các quan hệ công chúng. Họ phải giải quyết nhanh và êm đẹp các cuộc khủng hoảng có thể gây phương hại đến hình ảnh của tổ chức. Tại các DNNVV Các nhà quản trị doanh nghiệp nhỏ (Small-Business Managers) là người thành lập hoặc người chủ hiện tại, thường thực hiện toàn bộ các chức năng quản trị. Các nhà quản trị doanh nghiệp nhỏ chịu trách nhiệm đối với nhiều loại nhiệm vụ khác nhau. Các nhà quản trị doanh nghiệp nhỏ không có những khác biệt về công việc ở các cấp quản trị. Tuy vậy, khi hoạt động kinh doanh phát triển, người chủ doanh nghiệp cần thu hẹp phạm vi công việc và tập trung vào những nhiệm vụ chính yếu. Chẳng hạn, một doanh nhân giỏi về marketing có thể tập trung các nỗ lực của mình vào việc tìm kiếm các khách hàng mới để đạt sự tăng trưởng của kinh doanh và thuê mướn các quản trị viên khác để giám sát tài chính và những công việc khác. Những phẩm chất phải có của một người chủ DNNVV Trong doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng, các ông chủ hay người lãnh đạo đều có những vai trò quan trọng và trách nhiệm tương tự nhau, đều mong muốn doanh nghiệp thành công và đạt được những mục đích cụ thể mà doanh nghiệp muốn đạt tới. Các hoạt động cụ thể bao gồm: Xác định tầm nhìn rõ ràng, chính xác cho doanh nghiệp và lịch trình để đạt được mục tiêu đó. Huy động và thúc đẩy cấp dưới thực hiện mục tiêu. Nhà lãnh đạo tập trung vào yếu tố con người. Họ kêu gọi, lôi kéo những người dưới quyền đi theo mình, hướng tới thực hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp. Liên kết giữa các bộ phận trong doanh nghiệp và giữa doanh nghiệp với hệ thống bên ngoài. Thực hiện công việc của một nhà quản lý cấp cao: Xây dựng, thực thi chiến lược, lập kế hoạch, phân bổ nguồn lực, lực của công ty. Kiểm tra, đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Như vậy, thực chất công việc của nhà lãnh đạo yêu cầu phải có khả năng tạo ra tầm nhìn, cảm hứng và ảnh hưởng trong tổ chức. Ba đặc điểm, này kết hợp với nhau, tạo nên sự khác biệt của một nhà lãnh đạo với bất kỳ ai. Người nhìn xa trông rộng không phải là người lãnh đạo nếu anh ta không thể truyền cảm hứng. Người tạo ra và duy trì được ảnh hưởng không phải là người lãnh đạo nếu anh ta không thể tạo ra một tầm nhìn. Tầm nhìn, cảm hứng và ảnh hưởng cần phải được thực hiện một cách khéo léo và bài bản, đòi hỏi nhà lãnh đạo phải có những phẩm chất và kỹ năng riêng biệt. Vì vậy, công việc lãnh đạo vừa mang tính chất nghệ thuật, lại vừa mang tính chất khoa học. II. Thực trạng các chủ DNNVV ở Việt Nam hiện nay: Hội nhập kinh tế với một “Thế giới phẳng” nhiều cơ hội và thách thức mở ra trước mắt. Các chủ doanh nghiệp Việt Nam cần phải nắm bắt đối phó để chèo lái doanh nghiệp của mình tồn tại và phát triển. Phẩm chất riêng của cá nhân người lãnh đạo được biểu hiện qua tài năng, đức độ, hành vi cư xử khi quan hệ với những người xung quanh trong quá trình thực thi nhiệm vụ quản trị. Hiện nay đa phần các người chủ DNNVV là những nhà lãnh đạo trẻ tuổi. Họ thuộc một thế hệ doanh nhân mới và mang những đặc tính riêng. Vì họ chiếm phần đông các đối tượng lãnh đạo mà chúng ta phải đề cập, chúng tôi đã chọn Theo hướng nghiên cứu về tâm lý của chủ doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa có tổng thể những phẩm chất sau: Điểm mạnh của các chủ doanh nghiệp tại các DNNVV ở Việt Nam *Hầu hết các ông chủ tại các DNNVV tại Việt Nam là doanh nhân trẻ, là những người có lòng tự hào dân tộc và nung nấu hoài bão lớn cùng với quyết tâm thực hiện chúng: Thế hệ những doanh nhân trẻ Việt Nam tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn tự hào với những thành tựu của những người đi trước trong suốt quá trình 20 năm đổi mới. Đồng thời luôn phấn đấu hết mình xây dựng doanh nghiệp phát triển về quy mô, đẳng cấp và thương hiệu, không chỉ trong nước, trong khu vực mà còn trên toàn thế giới. Họ khao khát mang hình ảnh của hàng hóa, dịch vụ Việt nam ra toàn thế giới để khẳng định tên tuổi, nâng cao niềm tự hào dân tộc. Họ không chỉ mong ước được làm giàu cho đất nước mà còn quan tâm đến các vấn đề xã hội, chung tay xây dựng xã hội phát triển bền vững hơn. Từ những ngày đầu lập nghiệp trong mỗi nhà quản trị DNNVV đã nung nấu một hoài bão, một ước mơ, theo năm tháng ước mơ ấy càng rõ hơn và hiện thực hơn khi doanh nghiệp được lèo lái dưới những cánh tay vững chải lướt sóng, để đưa doanh nghiệp đến với bến bờ vinh quang. Chúng ta chỉ ngại những “ông chủ” thiếu ước mơ cháy bỏng, thiếu khát khao làm giàu chính đáng, ở đó họ sẽ thiếu tinh thần thép trong chiến đấu, sức trẻ và sức lửa không đủ để họach định những bước đi khôn ngoan trong cuộc cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt. Và lúc đó họ sẽ đành nhường bước, chia tay sớm với cuộc chơi thú vị nhưng đầy cam go và thử thách. “Ông chủ” thiếu hoài bảo là nguyên nhân chính của việc thiếu tầm nhìn dài hạn cho doanh nghiệp.Một đất nước lớn mạnh là đất nước có được nhiều người có hoài bảo, ước mơ. Chúng ta không thiếu  những doanh nhân Việt Nam có hoài bảo lớn, chúng ta có quyền tin về một viễn cảnh nơi mà tất cả những doanh nhân tâm huyết sẽ cùng góp trí tuệ, dồn sức mạnh, đồng tâm gánh vác sứ mệnh làm giàu cho đất nước, cho con người Việt Nam.  *Các chủ doanh nghiệp Việt nam hiện nay là những người có trị tuệ, được đào tạo bài bản, có phương pháp làm việc. Chủ doanh nghiệp thời đại là lớp doanh nhân có trí tuệ, được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp hơn. Ở đây, trí tuệ doanh nhân không chỉ hoặc không hẳn có được từ nhà trường đại học, hay yêu cầu họ phải là những cử nhân, thạc sĩ… Mà chính họ, những người khát khao làm chủ, làm giàu, họ sẽ cập nhật kỹ năng làm lãnh đạo, tham gia nhiều khóa huấn luyện bài bản, tự rèn luyện bản thân và trải nghiệm thực tiễn, trí tuệ một phần được hình thành như vậy. Chủ DNNVV là lớp doanh nhân dám nghĩ, dám làm, dám chấp nhận thách thức, dám đón nhận rủi ro. Họ biết dự báo tình hình, thời cuộc, quyết đấu tranh với chính bản thân mình và vượt qua đối thủ cạnh tranh bằng những giải pháp thị trường sáng tạo. Họ ngẩng cao đầu trong thất bại và hạnh phúc trong vinh quan. Họ giải quyết sự việc bằng khoa học, và giảm dần sự phụ thuộc của cảm tính cá nhân. Họ nhạy cảm với nhu cầu của cuộc sống, thấu hiểu nhu cầu và đáp ứng cho những nhu cầu đó.Trí tuệ lại một lần nữa giúp chủ DNNVV nhạy bén hơn, năng động hơn, hiện đại hơn. Những kỹ năng kinh doanh được hình thành dễ dàng hơn, giúp cho công việc thuận lợi hơn. Được đào tạo bài bản về cả kỹ năng và chuyên môn, cả về lý thuyết cũng như phương pháp làm việc, các chủ DNNVV của Việt Nam đang dần tự tin hơn để khẳng định mình và đưa đất nước đi lên. *Luôn năng động với diễn biến thị trường, nhạy bén chủ động và đầy sáng tạo. Với đặc trưng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chủ DNNVV luôn năng động, nắm bắt kịp thời những xu hướng, diến biến trên thị trường để tận dụng thời cơ và giảm tối đa những khó khắn thách thức. Với tính chất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên khi có những thay đổi trên thị trường, bên cạnh những khó khăn và thách thức mà hầu hết các doanh nhân đều gặp phải, thì đội ngũ chủ DNNVV luôn biết linh hoạt tận dụng lợi thế mô hình của doanh nghiệp mình một cách rất linh hoạt và chủ động. Họ luôn tràn đầy ý tưởng, dám nghĩ, dám làm, mạnh dạn và xung kích trên thương trường. Những ý tưởng kinh doanh mới lạ, phương pháp làm hợp lý đã và đang góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của DNNVV nói chung cũng như toàn nền kinh tế nói chung. *Tính cởi mở sẵn sàng tiếp xúc với mọi người, biết lắng nghe mọi người, gợi chuyện để thu lượm được thông tin cần thiết cho công việc. Với một số lượng cấp dưới thấp, và việc phải tiếp xúc thường xuyên với họ khiến cho các nhà lãnh đạo trở nên cởi mở hơn, biết lắng nghe nhu cầu và nguyện vọng của cấp dưới để đáp ứng tốt nhất có thể co họ. Đồng thời, các nhà lãnh đạo hiện nay rất biết tận dụng khả năng nói chuyện của mình để thu thập nhưng thông tin cần thiết cho công việc từ những nhân viên của mình.Chính điều này cũng giúp đỡ cho việc tạo niềm tin và thúc đẩy công việc tại các DNNVV. *Tính độc lập tự chủ cao : Những người đứng ra thành lập các DNNVV luôn luôn là những cá nhân có tính độc lập cao vì họ không chấp nhận làm việc phụ thuộc vào người khác mà đã tự mình tạo cho mình một cơ hội kinh doanh riêng, tự mình chiến đấu, chiến thắng và tự chịu trách nhiệm với hành động của mình. *Sự chăm chỉ, nhiệt huyết trong công việc khi khởi sự Truyền thống của người Việt Nam là sự cần cù chăm chỉ cộng với tinh thần của tuổi trẻ tạo nên nhiều nhà lãnh đạo hết mình vì công việc. Họ làm việc hăng say và truyền cảm hứng được cho những nhân viên của mình và giúp cho Doanh nghiệp của họ hoạt động tốt hơn. Điều này đặc biệt đúng khi các chủ DN trẻ mới bắt đầu khởi nghiệp, khi mà họ tràn đầy nhiệt huyết và khí thế quyết tâm thực hiện được mục đích của mình. 2. Điểm yếu của chủ DN tại các DNNVV ở Việt Nam *Thiếu tính đoàn kết. Sau khi ra nhập WTO các doanh nghiệp ở nước ta đặc biệt là các DNNVV gặp phải rất nhiều những khó khăn mà nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là các doanh nhân trẻ vẫn còn thiếu tính đoàn kết. Điều cơ bản mà các doanh nhân trẻ tại các DNNVV hiện nay cần đến chính là sự đoàn kết. Vốn liếng chưa nhiều, năng lực cạnh tranh chưa cao, mà lại không thể cởi mở, đoàn kết với nhau, thậm chí có khi còn chơi xấu, cạnh tranh không lành mạnh thì khó mà phát triển được. Ví dụ: Một mình cà phê Trung Nguyên với hoài bão xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam mà không có sự tiếp tay của những doanh nghiệp cùng ngành nghề thì biết đến chừng nào mới thực hiện được *Thiếu kinh nghiệm Mặc dù được đào tạo bài bản, và có trí tuệ, nhưng những chủ DNNVV trẻ thường chưa có kinh nghiệm. Họ thường không có được kinh nghiệm trong rất nhiều lĩnh vực: từ tác phong làm việc chuyên nghiệp, đến xử lý công việc kinh doanh, kỹ năng lãnh đạo…vv Điều này thường tạo nên những khó khăn khi khởi nghiệp và hay dẫn đến thất bại trong những lần đầu thử sức mình. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam thể hiện sự thiếu kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế ở việc không xem xét kỹ hợp đồng xuất nhập khẩu. "Điểm yếu của nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là khi thanh toán quốc tế không xem kỹ các chứng từ L/C, chưa chú trọng đến các chi tiết có tính nghiệp vụ trong thanh toán quốc tế khi tiến hành thương thảo hợp đồng với các đối tác nước ngoài". Điểm yếu của nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn là thiếu kinh nghiệm giao dịch trên thị trường quốc tế. Phần lớn không xem xét kỹ hoặc hiểu hết những rủi ro về luật pháp có thể xảy ra từ những điểm chưa rõ ràng trong hợp đồng xuất nhập khẩu. Một số doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế khi làm ăn với các đối tác nước ngoài. "Nếu không biết rõ về tình hình kinh tế chính trị của những nước đối tác do chính
Luận văn liên quan