Công nghiệp là ngành kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, giữ vai trò chủ đạo trong nên kinh tế quốc dân. Sản phẩm của công nghiệp không những đáp ứng nhu cầu phong phú đa dạng của người tiêu dùng mà còn đóng vai trò tư liệu lao động của các ngành kinh tế khác. Tuy nhiên, ngoài những sản phẩm có ích, hoạt động sản xuất công nghiệp còn thải ra tự nhiên một lượng rác khổng lồ gây ô nhiễm môi trường. Mặt khác, sản phẩm công nghiệp sau một thời gian sử dụng, bị hư hỏng, cũng trở thành rác thải. Hậu quả là những hiện tượng bất thường của thiên nhiên như: mưa axit, hiệu ứng nhà kính do tầng ôzôn bị phá vỡ. xuất hiện ngày càng phổ biến, đe doạ sự sống trên trái đất. Đây là vấn đề mang tính toàn cầu, được tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm và tất nhiên, Việt Nam không phải là ngoại lệ.
Ở nước ta, chất thải công nghiệp đã và đang gây ô nhiễm không khí, đất và nguồn nước nhiều khu vực, ảnh hưởng nghiêm trọng đời sống của người dân. Trong đó, công nghiệp hoá chất, với đặc thù của ngành, được coi là một trong những ngành công nghiệp gây ô nhiễm nhiều nhất. Đây là ngành công nghiệp mà hầu hết các loại chất thải đều rất độc hại, gây nguy hiểm cho môi trường tự nhiên và con người không chỉ trong hiện tại mà ảnh hưởng của nó còn tồn tại rất lâu dài. Cũng như những ngành công nghiệp khác, sản phẩm của ngành hoá chất sau khi được sử dụng còn tồn dư trong tự nhiên ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Điều này càng nguy hại khi ở Việt Nam, ý thức của người sử dụng chưa cao dẫn đến việc lạm dụng các hoá chất. Do đó, việc tìm ra các giải pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm trong công nghiệp nói chung và công nghiệp hoá chất nói riêng là nhiệm vụ rất cấp thiết, đòi hỏi sự nỗ lực không chỉ của ngành chuyên môn mà còn của các cơ quan Nhà Nước. Đây chính là một trong những mục tiêu của phát triển bền vững của nước ta: phát triển gắn với bảo vệ môi trường.
Do giới hạn về thời gian và khuôn khổ của đề tài, người viết chỉ nêu những nét chung nhất về vấn đề ô nhiễm môi trường trong công nghiệp thế giới và Việt Nam, sau đó tập trung tìm hiểu thực trạng ô nhiễm chất thải rắn trong ngành hoá chất ở Việt Nam; đưa ra một số giải pháp mà Nhà Nước cũng như ngành hoá chất đã và đang thực hiện để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường và một số khuyến nghị.
31 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3104 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất của công nghiệp hoá chất ở Việt Nam những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp là ngành kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, giữ vai trò chủ đạo trong nên kinh tế quốc dân. Sản phẩm của công nghiệp không những đáp ứng nhu cầu phong phú đa dạng của người tiêu dùng mà còn đóng vai trò tư liệu lao động của các ngành kinh tế khác. Tuy nhiên, ngoài những sản phẩm có ích, hoạt động sản xuất công nghiệp còn thải ra tự nhiên một lượng rác khổng lồ gây ô nhiễm môi trường. Mặt khác, sản phẩm công nghiệp sau một thời gian sử dụng, bị hư hỏng, cũng trở thành rác thải. Hậu quả là những hiện tượng bất thường của thiên nhiên như: mưa axit, hiệu ứng nhà kính do tầng ôzôn bị phá vỡ... xuất hiện ngày càng phổ biến, đe doạ sự sống trên trái đất. Đây là vấn đề mang tính toàn cầu, được tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm và tất nhiên, Việt Nam không phải là ngoại lệ.
Ở nước ta, chất thải công nghiệp đã và đang gây ô nhiễm không khí, đất và nguồn nước nhiều khu vực, ảnh hưởng nghiêm trọng đời sống của người dân. Trong đó, công nghiệp hoá chất, với đặc thù của ngành, được coi là một trong những ngành công nghiệp gây ô nhiễm nhiều nhất. Đây là ngành công nghiệp mà hầu hết các loại chất thải đều rất độc hại, gây nguy hiểm cho môi trường tự nhiên và con người không chỉ trong hiện tại mà ảnh hưởng của nó còn tồn tại rất lâu dài. Cũng như những ngành công nghiệp khác, sản phẩm của ngành hoá chất sau khi được sử dụng còn tồn dư trong tự nhiên ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Điều này càng nguy hại khi ở Việt Nam, ý thức của người sử dụng chưa cao dẫn đến việc lạm dụng các hoá chất. Do đó, việc tìm ra các giải pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm trong công nghiệp nói chung và công nghiệp hoá chất nói riêng là nhiệm vụ rất cấp thiết, đòi hỏi sự nỗ lực không chỉ của ngành chuyên môn mà còn của các cơ quan Nhà Nước. Đây chính là một trong những mục tiêu của phát triển bền vững của nước ta: phát triển gắn với bảo vệ môi trường.
Do giới hạn về thời gian và khuôn khổ của đề tài, người viết chỉ nêu những nét chung nhất về vấn đề ô nhiễm môi trường trong công nghiệp thế giới và Việt Nam, sau đó tập trung tìm hiểu thực trạng ô nhiễm chất thải rắn trong ngành hoá chất ở Việt Nam; đưa ra một số giải pháp mà Nhà Nước cũng như ngành hoá chất đã và đang thực hiện để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường và một số khuyến nghị.
Kết cấu đề tài bao gồm:
Phần mở đầu
I/ Công nghiệp đối với vấn đề ô nhiễm môi trường
I.1. Ô nhiễm môi trường trong hoạt động công nghiệp
I.2. Công nghiệp Việt Nam với vấn đề ô nhiễm môi trường.
II/ Thực trạng về ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất của công nghiệp hoá chất ở Việt Nam những năm gần đây
II.1. Vai trò của công nghiệp hoá chất trong nền kinh tế quốc dân
II.2. Vấn đề ô nhiễm chất thải rắn đặt ra cho ngành hoá chất ở nước ta
II.3. Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng ô nhiễm trong quá trình sản xuất của công nghiệp hoá chất.
III/ Một số giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất của công nghiệp hoá chất.
III.1. Những giải pháp vĩ mô bảo vệ môi trường và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của công nghiệp đến môi trường.
III.2. Các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm chât thải rắn trong hoạt động sản xuất của công nghiệp hoá chất.
III.3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác bảo vệ môi trường của ngành hoá chất.
Kết luận
I/ Công nghiệp và vấn đề ô nhiễm môi trường
I.1. Vấn đề ô nhiễm môi trường trong công nghiệp
Công nghiệp là ngành kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, là hoạt động sản xuất duy nhất mà sản phẩm của nó đóng vai trò tư liệu sản xuất trong các ngành kinh tế. Do vậy, vai trò chủ đạo trong nên kinh tế quốc dân của công nghiệp là một tất yếu khách quan. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, công nghiệp cũng phát triển không ngừng cả về quy mô, phạm vi, tốc độ và cơ cấu. Nó không ngừng khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ lợi ích của con người và đồng thời cũng làm biến đổi mạnh mẽ môi trường tự nhiên. Nhưng không phải tất cả tài nguyên khai thác được đều biến thành sản phẩm có ích, một phần trong số đó trở lại môi trường dưới dạng chất thải công nghiệp. Đây là vấn đề vô cùng nan giải bởi vì hầu hết các loại rác thải công nghiệp đều rất khó phân huỷ thậm chí độc hại làm ô nhiễm môi trường. ( Xem bảng 1 )
Do giới hạn về công nghệ cũng như ý thức của con người, chất thải công nghiệp đã và đang gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí... dẫn đến những hậu quả to lớn như:
Lượng ôxy và nguồn nước giảm, trong khi các loại khí độc như CO2 , SO2 ... tăng lên nhanh chóng.
Mưa axit do nhiên liệu sử dụng trong công nghiệp thải vào không khí gây tác động xấu tới nông nghiệp và sức khoẻ của con người.
Hiệu ứng nhà kính do các chất CFC thải ra trong công nghiệp lam thủng tầng ozon và làm cho trái đất nóng lên- nguyên nhân của việc băng tan nhanh trên các cực của trái đất, các hiện tượng elnino, danila, và nhiều hiện tượng thiên nhiên bất thường khác.
Bảng 1: Phát sinh chất thải rắn công nghiệp ( nghìn tấn/ năm ) ở một số nước Châu Âuu năm 1990(1)
Nước
Khai mỏ
Chế tạo
Năng lượng
áo
21
31.081
1.150
Bỉ
27.000
1.069
Bungary
1.506.755
370.757
195.560
CH Séc
533.373
39.604
25.774
Đan Mạch
2.304
1.532
Phần Lan
21.650
10.160
950
Pháp
100.000
500.000
Đức
19.296
81.906
29.598
Hy Lạp
3.900
4.304
7.680
Hungary
45.000
Iceland
135
Italy
34.710
Luxembourg
1.300
Hà Lan
391
7.665
1.553
Na Uy
9.000
2.000
Ba Lan
85.200
27.000
18.800
Bồ Đào Nha
202
662
165
Tây Ban Nha
70.000
13.800
Thuỵ Điển
28.000
13.000
625
Thuỵ Sỹ
1.000
Thổ Nhĩ Kỳ
Anh
107.000
56.000
13.000
Công nghiệp càng phát triển, vấn đề ô nhiễm do chất thải công nghiệp càng trở nên nóng bỏng và hiện nay nó đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu, đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả các nước trên thế giới trong việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường do hoạt động của công nghiệp. Biện pháp trước mắt là phải xử lý chất thải công nghiệp, về lâu dài, cần phải tiến đến một nên công nghiệp sạch, thân thiện với môi trường, đảm bảo sự phát triển bền vững cho cả con người và môi trường.
I.2. Công nghiêp Việt Nam và vấn đề ô nhiễm môi trường.
Công nghiệp Việt Nam là một bộ phận của công nghiệp thế giới, vì vậy đặc trưng và sự phát triển của công nghiệp nước ta tuân theo quy luật chung của thế giới. Những vấn đề môi trường do hoạt động công nghiệp mà các nước trên thế giới gặp phải đồng thời cũng là những khó khăn của nước ta. Việt Nam là một nước đang phát triển, công nghiệp Việt Nam so với khu vực và thế giới còn nhỏ bé và lạc hậu. Tuy nhiên, không vì vậy mà vấn đề ô nhiễm môi trường do chất thải công nghiệp ở nước ta không trở nên nóng bỏng. Ngược lại, đây là một trong những thách thức khó khăn mà chúng ta đang phải đối mặt.
Hàng năm, ở nước ta, có tới 2.638.000 tấn chất thải công nghiệp thải vào môi trường, trong đó có tới 128.400 tấn là chất thải nguy hại(2). Công nghiệp có thể được coi là nguồn phát sinh chất thải lớn thứ hai sau chất thải sinh hoạt ( chất thải sinh hoạt chiếm 80%, chất thải công nghiệp chiếm 17% tổng lượng chât thải rắn phát sinh.(3)) Các ngành công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố miền Đông Nam Bộ phát sinh gần một phần hai lượng chất thải công nghiệp cả nước, tiếp đến là các cơ sở công nghiệp đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Theo báo cáo của cục môi trường năm 2002, tổng lượng chất thải nguy hại phát sinh mỗi năm của ba vùng kinh tế trọng điểm khoảng 113.118 tấn. (4) Trong đó lượng chất thải nguy hại phát sinh từ vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gấp ba lần phía Bắc và gấp hai mươi lần miền Trung ( xem bảng 2 ). Với trình độ công nghệ lạc hậu hiện nay và khả năng giới hạn về tài chính, giải quyết lượng chất thải công nghiệp ngày càng tăng như trên qủa là một vấn đề nan giải đối với Việt Nam, tuy nhiên vì sự phát triển lâu dài của đất nước, chúng ta không thể làm ngơ trước nguy cơ này. Đây cũng là một vấn đề quan trọng đặt ra trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước: cần phát triển công nghiệp đi đôi với bảo vệ môi trường.
Bảng 2: lượng chất thải công nghiệp phát sinh năm 2002 của ba vùng kinh tế trọng điểm(5)
Vùng kinh tế trọng điểm
Khối lượng ( tấn/năm )
Phía Bắc
Hà Nội
Hải Phòng
Quảng Ninh
28.739
24.000
4.620
119
Miền Trung
Đà Nẵng
Quảng Nam
Quảng Ngãi
4.117
2.257
1.768
92
Phía Nam
Thành phố Hồ Chí Minh
Đồng Nai
Bà Rịa- Vũng Tàu
80.332
44.413
33.976
1.943
Tổng
113.188
II/ Thực trạng về ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất của công nghiệp hoá chất ở Việt Nam những năm gần đây
II.1. Vai trò của công nghiệp hoá chất trong nền kinh tế quốc dân
Hoá chất là ngành công nghiệp có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới (1986), công nghiệp hoá chất nước ta đã có những bước phát triển nhảy vọt cả về số lượng và chất lượng.
Về cơ cấu ngành, trong công nghiệp hoá chất đã hình thành một số chuyên ngành quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân: công nghiệp hoá chất phục vụ nông nghiệp ( phân bón, thuốc bảo vệ thực vật ), công nghiệp mỏ hoá chất, công nghiệp cao su, công nghiệp hoá chất cơ bản, công nghiệp các sản phẩm điện hoá, công nghiệp chất giặt rửa...và các chuyên ngành này có tỷ trọng tương đối cao trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
Sản phẩm của ngành công nghiệp hoá chất không chỉ là nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp mà còn phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đời sống hàng ngày của người dân. Trong số hàng trăm sản phẩm mà ngành hoá chất đang sản xuất và cung cấp cho thị trường, phải kể đến các loại phân bón và hoá chất bảo vệ thực vật. Hiện nay, tổng công ty hoá chất Việt Nam đang sản xuất và cung cấp cho thị trường 1,4 triệu tấn phân chứa lân ( supe phốt phát và phân lân nung chảy ), đáp ứng 100% nhu cầu cả nước; khoảng 1,4 đến 1,6 triệu tấn phân NPK và 150 nghìn tấn phân đạm,(6) thoả mãn hầu hết nhu cầu thuốc bảo vệ thực vật của cả nước. Đối với một nước nông nghiệp như Việt Nam, những số liệu trên đây thể hiện rõ nhất tầm quan trọng của ngành hoá chất đối với nền kinh tế: góp phần to lớn vào việc tăng năng suất trong hoạt đông sản xuất nông nghiệp và hơn nữa, những sản phẩm này có liên quan đến vấn đề an ninh lương thực quốc gia.. Ngoài ra, ngành hoá chất còn sản xuất thoả mãn hầu hết nhu cầu về săm lốp xe đạp, ô tô, xe máy; bột giặt; pin điện; ắc quy... Nhiều loại sản phẩm trong ngành có thương hiệu nổi tiếng, được bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao và nhiều mặt hàng đã được xuất khẩu sang thị trường khu vực và thế giới, được người tiêu dùng đánh gía cao.
Có thể nói, hoá chất là ngành công nghiệp quan trọng có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của công nghiệp, nông nghiệp và đời sống nhân dân. Vì vậy, ngành công nghiệp này cần nhận được sự quan tâm thích đáng của Nhà Nước và các cơ quan hữu quan, tạo điều kiện cho ngành phát triển toàn diện, thực hiện tốt vai trò của mình.
II.2. Vấn đề ô nhiễm chất thải rắn đặt ra cho ngành hoá chất ở nước ta
Tuy đóng vai trò vô cùng quan trọng như đã trình bày ở trên, nhưng công nghiệp hoá chất lại là ngành công nghiệp có mức gây ô nhiễm lớn nhất. Ngành hoá chất sử dụng nhiều loại vật tư nguyên liệu độc hại (chì, clo, SO2...) nếu không được quan tâm đúng mức, hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ các sản phẩm hoá chất có khả năng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Hầu hết các loại chất thải trong quá trình sản xuất hoá chất đều rất độc hại, gây nguy hiểm cho môi trường tự nhiên và con người không chỉ trong hiện tại mà ảnh hưởng của nó còn tồn tại rất lâu dài. Cũng như những ngành công nghiệp khác, sản phẩm của ngành hoá chất sau khi được sử dụng còn tồn dư trong tự nhiên ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Điều này càng nguy hại khi ở Việt Nam, ý thức của người sử dụng chưa cao dẫn đến việc lạm dụng các sản phẩm hoá chất.
Một số vấn đề môi trường gặp phải trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoá chất là: ô nhiễm môi trường do chất thải rắn, ô nhiễm không khí, ô nhiễm do hoá chất tồn dư trong môi trường.... trong khuôn khổ đề tài, chỉ đề cập tới ô nhiễm môi trường do chất thải rắn.
Trong quá trình sản xuất, công nghiệp hoá chất đã thải vào môi trường những loại chất thải rắn như:
Xỉ than: hình thành từ quá trình đốt than để thu khí sản xuất NH3 và sản xuất điện. Thành phần chủ yếu của xỉ than là silic oxit, sắt oxit, CaO và than chưa cháy.
Xỉ lò: được hình thành từ quá trình dản xuất phốt pho vàng có thành phần chủ yếu là silic oxit, nhôm oxit, CaO và flo.
Photphogip: là chất thải của quá trình sản xuất axit photphoric theo phương pháp ướt ở nhà máy DAP. Cứ sản xuất một tấn axit photphoric thì tạo ra năm tấn photphogip. Thành phần chủ yếu của photphogip là CaSO4 và các tạp chất.
Đá thải: là chất thải của quá trình khai thác quặng phốt phát và quặng bô xít. Đá thải nói chung có hình dạng thô, hoặc được đập nhỏ ở các kích thước khác nhau.
Bùn thải: là chất thải của quá trình tuyển quặng apatit và quặng bô xít ( bùn phốt phát, bùn nhôm ), chất thải này ở dạng huyền phù, có hàm lượng chất rắn thấp, được lắng trong các hồ tuần hoàn. thành phần chủ yếu của bùn photphat là silic oxit, sắt oxit, còn trong bùn nhôm là nhôm oxit, sắt oxit, silic oxit.
Dự kiến đến năm 2010 lượng chất thải rắn được sinh ra trong các quá trình sản xuất hoá chất như sau: ( bảng 3 )(7)
Chất thải
Lượng thải ( tấn/ năm )
Xỉ than
300.000
Xỉ lò
120.000
Photphogip
1.000.000
Đá thải
400.000
Bùn thải
1.800.000
Đến năm 2010, dự báo tổng lượng chất thải rắn này sẽ vào khoảng 3,7 đến 4 triệu tấn.
Đây là mối hiểm hoạ tiềm tàng và có xu hướng gia tăng. Việc xử lý chất thải rắn vẫn còn ở mức rất thô sơ ( Theo thống kê, hiện nay gần 100% chất thải rắn sinh ra từ các quá trình sản xuất hoá chất là bị thải bỏ ), gây ra nhiều vấn đề môi trường cho các cư dân quanh vùng và ảnh hưởng đến nguồn nước ngầm.
II.3. Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng ô nhiễm trong quá trình sản xuất của công nghiệp hoá chất.
Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, vấn đề ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất công nghiệp nói chung và hoạt động sản xuất hoá chất nói riêng là một thách thức rất lớn mà chúng ta phải vượt qua. Có rất nhiêu nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên bao gồm những nguyên nhân chung và do đặc điểm của ngành hoá chất.
Những nguyên nhân chung:
Trình độ công nghệ sử dụng trong quá trình sản xuất công nghiệp nói chung và công nghiệp hoá chất nói riêng và trình độ công nghệ xử lý chất thải ở nước ta còn rất lạc hậu, gây lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường, lượng chất thải chưa được xử lý tốt.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu công nghiệp từ các ngành truyền thống sang các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp hoá chất làm tăng lượng chất thải độc hại vào môi trường.
Bộ máy quản lý và năng lực quản lý môi trường chưa đáp ứng nhu cầu, vừa thiếu về lực lượng, vừa yếu về năng lực.
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường lạc hậu, nguồn lực của Nhà Nước và các doanh nghiệp đều bị hạn chế.
Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm với yêu cầu bảo vệ môi trường chưa được xử lý đang là thách thức lớn trong bảo vệ môi trường.
Nguyên nhân do đặc điểm của ngành:
Đặc điểm nổi bật của ngành hoá chất là sử dụng nhiều loại vật tư nguyên liệu độc hại ( chì, axit, clo, SO2... ) vì vậy, mức độ ô nhiễm trong quá trình sản xuất hoá chất cao hơn nhiều so với nhiều ngành công nghiệp khác.
Do việc phân bố các nhà máy hoá chất chưa hợp lý, nhiều nhà maý được xây dựng gần khu dân cư nên chất thải hoá chất ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân.
Do ý thức bảo vệ môi trường của nhiều doanh nghiệp hoá chất chưa cao, chưa quan tâm đầu tư thích đáng cho công nghệ xử lý chất thải.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường trong công nghiệp hoá chất. Muốn giải quyết triệt để và hiệu quả vấn đề môi trường, cần phải tập trung từ những nguyên nhân cơ bản nêu trên.
III/ Một số giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất của công nghiệp hoá chất.
III.1. Những giải pháp vĩ mô bảo vệ môi trường và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của công nghiệp đến môi trường.
Để bảo vệ môi trường, giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của chất thải công nghiệp, đặc biệt là chất thải công nghiệp hoá chất đến môi trường, cần phải có một hệ thống các giải pháp bao gồm chính sách, luật pháp, thể chế, và phải xác định những mục tiêu cụ thể cần phấn đấu đạt được trong những khoảng thời gian nhất định. Những giải pháp này cần được thực hiện đồng bộ để đem lại hiệu quả cao nhất, đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Về chính sách, luật pháp, thể chế:
- Chính sách: Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã nêu rõ: “ Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.” trên tinh thần đó, Nghị quyết số 41- NQ/TW của Bộ chính trị đã khẳng định quan điểm chỉ đạo xuyên suốt về bảo vệ môi trường, theo đó, bảo vệ môi trường phải được gắn kết chặt chẽ, hài hoà với phát triển kinh tế và bảo đảm công bằng xã hội.
Luật pháp: Các quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững đã được thể chế hoá bằng các công cụ chính sách và pháp luật cụ thể. Từ năm 1991, kế hoạch quốc gia về môi trường phát triển lâu bền ( 1991- 2000 ) đã được thông qua và thực hiện. Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường đã được phát triển khi luật Bảo vệ môi trường được thông qua năm 1993. Dự thảo luật Bảo vệ môi trường sửa đổi đang trình Quốc Hội thông qua đã đưa vào các quy định mới về gỉam thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải rắn đô thị và công nghiệp nhằm cải thiện tình hình quản lý chất thải ở nứơc ta.
Thể chế: Hệ thống quản lý Nhà Nước về bảo vệ môi trường bắt đầu được thànhlập từ năm 1992 với Bộ Khoa Học, Công nghệ và Môi trường chịu trách nhiệm quản lý về Nhà Nước về bảo vệ môi trường cấp trung ương,và các sở Khoa Học, Công nghệ và môi trường ở cấp tỉnh, thành phố. Năm 2002, cùng với việc thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường, hệ thông quản lý Nhà Nước về bảo vệ môi trường được phát triển đến cấp huyện và cấp xã ở một số địa phương. Các bộ ngành cũng đã hình thành các đơn vị chuyên trách quản lý môi trường của ngành mình. Một số tổng công ty lớn cũng đã thành lập các phòng, ban hay bộ phận chuyên trách về quản lý môi trường.
Công cụ kinh tế quản lý ô nhiễm môi trường:
Giao quyền sở hữu khu vực thải ( thuyết Coase ): phương pháp này cho rằng, bằng cách xác định quyền sở hữu rõ ràng khu vực thải, dù người bị ô nhiễm hoặc người gây ô nhiễm có quyền sở hữu khu vực thải cũng sẽ bàn bạc giải quyết vấn đề ônh nhiễm một cách hiệu quả nhất trên góc độ kinh tế môi trường.
Thuế ô nhiễm ( thuế Pigou ): Được dùng khi cơ chế thị trường hoạt động tương đối tốt. Thuế ô nhiễm sẽ dần đi vào giá cả hàng hoá.
Chuẩn mức thải: Đây là công cụ thường được sử dụng để quản lý ô nhiễm, đặc biệt với những chất thải độc hại. Nó khuyến khích các cơ sở nghiên cứu các công nghệ giảm thải hiệu qủa hơn.
Giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng: hình thành một thị trường giấy phép, các cơ sở có lượng chất thải lớn có thể mua lại giấy phép xả thải của những cơ sở có lượng chất thải ít hơn. Như vậy, tổng lượng chất thải ra môi trường được kiểm soát. Trong dài hạn các doanh nghiệp muốn giảm chi phí phải đầu tư nghiên cứu công nghệ sử lý chất thải hiệu quả hơn.
Chính sách trợ cấp giảm thải cho các hãng gây ô nhiễm: Các hãng nhận trợ cấp sẽ giảm lượng chất thải theo quy định để nhận lợi do trợ cấp đem lại, chính sách này chỉ có tác dụng trong ngắn hạn.
Những công cụ kinh tế trên đây đều có những mặt tích cực và hạn chế riêng, và chỉ phù hợp trong từng trường hợp cụ thể, vì vậy việc áp dụng chúng cần có sự cân nhắc kỹ càng cả hai mặt đó sao cho hiệu quả mang lại cho môi trường là cao nhất và lâu dài nhất.
Mục tiêu bảo vệ môi trường trong công nghiệp được thể hiện rõ thông qua chiến lược quốc gia bảo vệ môi trường giai đoạn 2001- 2010 được Chính phủ thông qua, trong đó mục tiêu cao nhất của chiến lược là “Giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường của ngành công nghiệp”. Mục tiêu tổng thể của chiến lược bảo vệ môi trường của ngành công nghiệp là: đến năm 2