Như chúng ta đã b iết, những tác động của thuế cuối cùng phụ thuộc vào cách 
tác động của chúng đến hành vi. Tác động của thuế đến hành vi là vấn đề của các cuộc 
thảo luận gay go, giữ a các nhà học thuật và các chính khách. Một số ý kiến cho rằng
thuế có ảnh hưởng rất nhỏ, không mang tính khuyến khích. Một số ý kiến cho rằng 
mức thuế biên cao dẫn đến thái độ làm việc ngày càng tồi, số lần vắng mặt không có lý
do cao hơn, miễn cưỡng đi làm 
Để nghiên cứu rõ hơn những tác động của thuế vào cung lao động, đồng th ời 
qua đó xem xét liệu thuế có làm thay đổi cung lao động hay không, nhóm chúng tôi 
chọn đề tài “Thuế đánh vào cung lao động” để làm bài nghiên cứu của nhóm mình.
Do thời gian nghiên cứu và tìm hiểu ngắn, cũng như lần đầu tiên tiếp xúc với 
lĩnh vực nghiên cứ u rộng lớn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong th ầy và 
các bạn góp ý để nhóm hoàn chỉnh bài nghiên cứu của mình
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 19 trang
19 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2229 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thuế đánh vào cung lao động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM 
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC 
------ 
PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THUẾ 
THUẾ ĐÁNH VÀO CUNG LAO ĐỘNG 
 GVHD: PGS.TS NGUYỄN NGỌC HÙNG 
 THỰC HIỆN: NHÓM 4_NH ĐÊM6 
TP.HỒ CHÍ MINH – THÁNG 06/2012 
LỜI MỞ ĐẦU 
Như chúng t a đã b iết, những tác động của thuế cuối cùng phụ thuộc vào cách 
tác động của chúng đến hành vi. Tác động của thuế đến hành vi là vấn đề của các cuộc 
thảo luận gay go, giữa các nhà học thuật và các chính khách. Một số ý kiến cho rằng 
thuế có ảnh hưởng rất nhỏ, không mang tính khuyến khích. Một số ý kiến cho rằng 
mức thuế biên cao dẫn đến thái độ làm việc ngày càng t ồi, số lần vắng mặt không có lý 
do cao hơn, miễn cưỡng đi làm… 
Để nghiên cứu rõ hơn những tác động của thuế vào cung lao động, đồng thời 
qua đó xem xét liệu thuế có làm thay đổi cung lao động hay không, nhóm chúng tôi 
chọn đề tài “Thuế đánh vào cung lao động” để làm bài nghiên cứu của nhóm mình. 
Do thời gian nghiên cứu và tìm hiểu ngắn, cũng như lần đầu tiên tiếp xúc với 
lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong thầy và 
các bạn góp ý để nhóm hoàn chỉnh bài nghiên cứu của mình. 
Lý thuyết thuế đã làm rõ rằng những tác động của thuế cuối cùng phụ thuộc vào 
cách tác động của chúng đến hành vi. Tác động của thuế đến hành vi là vấn đề của 
các cuộc thảo luận gay go, giữa các nhà học thuật và các chính khách. Một số ý kiến 
cho rằng thuế có ảnh hưởng rất nhỏ, không mang tính khuyến khích. Một số ý kiến cho 
rằng mức thuế biên cao dẫn đến thái độ làm việc ngày càng tồi, số lần vắng mặt không 
có lý do cao hơn, miễn cưỡng đi làm… Nội dung bài này sẽ nghiên cứu tác động của 
thuế v ào cung lao động, qua đó xem xét liệu thuế có làm thay đổi cung lao động hay 
không. 
I/ LÝ THUYẾT CƠ BẢN: 
1. Cung lao động: 
1.1. Khái niệm về cung lao động: 
Cung lao động của một nền kinh tế được xây dựng bằng cách cộng tất cả các quyết 
định làm việc của các cá nhân trong nền kinh t ế. 
Cung lao động phụ thuộc vào các y ếu tố: 
 Sở thích của người lao động. 
 Giới hạn về thời gian và ngân sách. 
1.2. Đường bàng quan và đường giới hạn Ngân sách: 
 Hình 1: Đường bàng quan và đường ngân sách 
Điểm t iếp xúc giữa các đường bàng quan và đường giới hạn ngân sách sẽ cho ra 
lựa chọn tối ưu về thời gian lao động và nhàn rỗi để đạt được mức thỏa dụng cao nhất 
của người lao động. 
1.3. Hàm cung lao động: 
Đường cung lao động thể hiện mức tương quan giữa thu nhập nhận được và thời 
gian làm việc. 
 Hình 2: Đường cung lao động 
Cung lao động có xu hướng tăng lên khi thu nhập tăng. Tuy nhiên, khi thu nhập 
tăng đến một mức nào đấy, cung lao động lại có xu hướng giảm khi thu nhập tiếp tục 
tăng. 
2. Thiết lập m ô hình: 
Giả sử Bình đang quy ết định sử dụng bao nhiêu thời gian trong mỗi tuần để làm 
việc và bao nhiêu thời gian cho nghỉ ngơi. Có thể minh họa sự lựa chọn giữa thời gian 
làm việc và nhàn rỗi bằng đồ thị và miêu tả chi tiết như sau: 
 Tổng quỹ thời gian nhàn rỗi mà Bình có được thể hiện tại trục hoành. Giả sử 
khoảng t hời gian không dành cho nhàn rỗi thì dành cả cho lao động. Như vậy, bất kì 
một điểm nào trên trục hoành là một kết hợp thể hiện số giờ nhàn rỗi và làm việc của 
Bình. 
 Đường giới hạn ngân sách trong biểu đồ cho thấy sự kết hợp giữa thời gian 
nhàn rỗi và thu nhập hay tiêu dùng của một cá nhân được xác định bởi tiền lương lao 
động. Nếu mức lương của Bình là w/giờ thì đường giới hạn ngân sách của anh ta là 
đường thẳng có giá trị tuyệt đối của độ dốc là w và có dạng: C + wL = wT, trong đó C 
là tiêu dùng được quy ết định bởi thu nhập, wL giá trị giờ nhàn rỗi, wT là tổng thu 
nhập. Ở hình 3, đó là đường BC. 
 Điểm đặc biệt của đường giới hạn ngân sách là phụ thuộc vào sở thích của mỗi 
người. Ta có các đường cong bàng quan có mặt lồi hướng về gốc O. Ba đường cong 
này được đặt tên là i, ii, và iii trong hình 3. Tại A1 là điểm tối ưu của việc lựa chọn: 
Bình sử dụng L1 giờ để nhàn rỗi và C1 giờ lao động, kiếm được thu nhập là OC1. 
 Hình 3: Lựa chọn thời gian làm việc tối đa hóa thỏa dụng 
Bây giờ giả sử chính phú đánh thuế thu nhập với thuế suất tỷ lệ t. Thuế này làm 
giảm tiền lương một giờ từ w xuống còn ( 1 – t)w. Khi đó Bình không lao động 1 giờ 
thì anh t a chỉ mất một khoản thu nhập là ( 1 – t)w, chứ không phải là w. Kết quả là 
thuế đã làm giảm chi phí cơ hội của một giờ nhàn rỗi. Minh họa này đư ợc trình bày 
trên hình 4. Đường giới hạn ngân sách của Bình bây giờ không còn là BC1. Thay vào 
đó là đường BC2, với giá trị tuyệt đối của độ dốc bằng (1- t)w. Do đánh thuế, nên Bình 
phải chọn một điểm dọc theo đường giới hạn ngân sách sau thuế BC2. Trên hình 4, đó 
là điểm B có tọa độ: L2 giờ nhàn rỗi và C2 giờ lao động. Như vậy, đánh thuế đã làm 
giảm thời gian lao động của Bình (L2 – L1) giờ. 
 Hình 4: Đánh thuế và sự đánh đổi tiêu dùng và nhàn rỗi 
Như vậy, có phải đánh thuế luôn làm giảm mức cung lao động hay không? 
3. Hiệu ứng thay thế và hiệu ứng thu nhập 
Đánh thuế vào cung lao động có thể gây ra hai hiệu ứng: hiệu ứng thay thế và hiệu 
ứng thu nhập. 
Khi thuế làm giảm số tiền lương khả dụng thì chi phí cơ hội của nhàn rỗi cũng 
giảm, khi đó người ta có khuynh hướng thay thế làm việc và nhàn rỗi. Đây là hiệu ứng 
thay thế với khuynh hướng làm giảm mức cung lao động. 
Thế nhưng, nhàn rỗi cũng là một loại hàng hóa giống như các hàng hóa khác, có sự 
lựa chọn trong tiêu dùng. Nếu như các yếu tố khác không đổi, một khi thu nhập giảm 
sút, thì Bình phải cắt giảm số giờ nhàn rỗi. Số giờ nhàn rỗi giảm đi thì giờ lao động 
tăng lên. Hiệu ứng thu nhập có khunh hướng làm cho Bình làm việc nhiều hơn. 
Như vậy, hai hiệu ứng này có tác động theo hai chiều ngược nhau. Đơn giản là 
không thể biết được (nếu chỉ trên cơ sở lý thuy ết) hiệu ứng thu nhập hay hiệu ứng thay 
thế nổi trội hơn. Đối với Bình thể hiện trên hình 5a, hiệu ứng thay thế lớn hơn; còn 
trên hình 5b, hiệu ứng thu nhập lớn hơn. 
 Hình 5a: Hi ệu ứng thay thế l ớn Hình 5b: Hiệu ứng thu 
nhập lớn 
4. Thuế lũy tiến: 
 Việc phân tích đối với thuế lũy tiến cũng tương tự với thuế tỷ lệ. Giả sử biểu 
thuế lũy tiến của thuế thu nhập có thuế suất biên: t1 cho 5.000 đôla đầu tiên, t2 cho 
5.000 đôla tiếp theo, và t3 cho phần thu nhập trên 10.000 đôla. Đường ngân sách trước 
thuế là BC1. Sau thuế, đường ngân sách sẽ là đường gấp khúc BKHC2. 
 Hình 6: Đánh thuế lũy tiến và phản ứng cung lao động 
5. Giới hạn về giờ làm việc và nguyên tắc trả thêm giờ: 
 Lý thuyết cơ bản nghiên cứu hiệu ứng thuế đến cung lao động gắn với giả thiết 
thị trường lao động lý tưởng. Tuy nhiên, trong thực tế các cá nhân không thể tự do 
điều chỉnh số giờ lao động tự do theo ý muốn của mình khi có sự thay đổi chính 
sách thuế 
 M ột giới hạn khác làm gia tăng giờ làm việc là quy định trả thêm giờ. Điều này 
nghĩa là ngoài thời gian làm việc quy định, việc sử dụng thêm lao động sẽ trở nên 
đắt đỏ hơn với Doanh nghiệp do tiền lương cho lao động ngoài giờ sẽ cao hơn. 
Doanh nghiệp sẽ có thể cân nhắc hơn trong lựa chọn cho phép công nhân làm thêm 
giờ. 
II. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm: 
1. Kết quả thự c nghiệm: 
Kết quả lý thuyết cho rằng quyết định về mức cung lao động của mỗi cá nhân phụ 
thuộc vào: 
 Những biến số ảnh hưởng đến đường ngân sách (đặc b iệt là tiền lương sau thuế) 
 Những biến số ảnh hưởng đến đường bàng quan của cá nhân về nghỉ ngơi và 
thu nhập (tuổi t ác, giới tính và tình trạng hôn nhân) 
Lý thuy ết thực nghiệm phân chia lao động thành 2 nhóm: 
 Những người kiếm tiền sơ cấp : là thành viên tạo ra thu nhập chính trong gia 
đình. Theo truyền thống người kiếm tiền sơ cấp thường là người chồng. 
 Những người kiếm tiền thứ cấp : là những lao động khác còn lại trong gia đình, 
thường là người vợ có trách nhiệm nuôi con cái. 
Để ước lượng độ co giãn của cung lao động, chúng t a có thể t iếp cận từ 3 hướng 
chính: 
 Thực nghiệm xã hội 
 Các dạng có tính chất thực nghiệm 
 Hồi quy tuyến tính 
a. Kết luận từ các công trình nghiên cứu thực nghiệm về độ co giãn của cung lao 
động 
 Người lao động sơ cấp : độ co giãn là +0.1, ảnh hưởng khá nhỏ 
 Người lao động thứ cấp : độ co giãn thay đổi từ +0.5 đến +1.0, ảnh hưởng rất 
lớn. Ảnh hưởng này xuất phát từ mở rộng biên (liệu có làm thêm hay không), chứ 
không phải thâm dụng biên (dựa vào số giờ thực tế lao động) 
b. Kết luận từ ước lượng phương trình hồi quy 
Các n hà nghiên cứu kinh tế l ượng đã ước lư ợng phương trình hồi qui nhằm giải 
thích số giờ làm việc hằng năm, phương trình này được viết dưới dạng: 
LSi = α + β ATWAGEi + δ NLINCO MEi + λXi + ε 
Trong đó: 
LS: là đường cung lao động. 
ATWAGE: là tiền lương sau thuế 
NLINCOME: là thu nhập không lao động. 
X: là vec tơ tính cách của người lao động. 
Hệ số β bao gồm tác động từ hiệu ứng thu nhập và hiệu ứng thay thế. Tuy nhiên 
nếu β > 0, tiền lương cao hơn, cung lao động t ăng lên => hiệu ứng thay thế lấn át hiệu 
ứng thu nhập. Do đó, các nhà nghiên cứu đưa vào mô hình yếu tố “thu nhập không do 
lao động – NLINCOM E”, để hồi quy t ách ảnh hưởng thay thế và ảnh hưởng thu nhập. 
Nói chung có 2 khuynh hướng chung chủ yếu dưới đây quan sát được khi nghiên 
cứu thị trường lao động: 
+ Cung lao độn g của nam xấp xỉ từ 20 đến 60 tuổi : độ co giãn dao động từ -0.2 
đến 0, không có nhiều ý nghĩa về mặt thốn g kê. Khi đánh thuế hay không đánh thuế thì 
cung lao động của những người này là co giãn ít. 
+ Cung lao động của nữ : có độ co giãn lớn hơn của nam. Đặc biệt, quy ết định về 
số giờ làm việc của phụ nữ có gia đình rất nhạy cảm với những thay đổi của lương 
ròng (độ co giãn của số giờ làm việc với lương ròng khoảng 0.2 đến 1) 
2. Một số vấn đề cần cân nhắc: 
Những kết quả thực nghiệm trên rất hữu ích để kiểm định lý thuyết. Tuy nhiên cần 
phải chú ý đến những cân nhắc quan trọng 
- Cân nhắc khía cạnh cầu: 
+ Những phân tích trước bỏ q ua các tác động làm thay đổi mức cung lao động theo 
nhu cầu thị trường. Khi người ta cung ứng nhiều giờ làm việc hơn thì tiền lương trước 
thuế có khuynh hướng giảm. điều này làm giảm bớt số t ăng thêm của tiền lương sau 
thuế s o với tính toán ban đầu, vì thế số giờ làm việc tăng thêm, cuối cùng, sẽ nhỏ hơn 
tính t oán ban đầu. 
+ Ngoài ra, những thay đổi trong quyết định làm việc cũng ảnh hưởng đến cơ cấu 
tiêu thụ hàng hóa khác. 
- Hiệu ứng cá nhân và nhóm: 
 Cần làm rõ có bao nhiêu cá nhân làm việc trong điều kiện chế độ thuế thay đổi. 
Rất khó để sử dụng những kết quả này để dự đoán tổng số giờ làm việc của một nhóm 
công nhân sẽ thay đổi như thế nào. Khi thuế thay đổi, động cơ làm việc thay đổi khác 
nhau ở mỗi người. Ví dụ, khi thay đổi từ thuế cố định sang thuế luỹ tiến, những công 
nhân có thu nhập thấp có thể chịu mức thuế suất biên thấp hơn trong khi tình trạng 
ngược lại xảy ra với người có thu nhập cao. Thế thì, rất có thể mức cung lao động của 
hai nhóm thay đổi theo hai hướng ngược nhau khiến cho khó có thể tiên đoán một kết 
quả chung. 
- Các khía cạnh khác của cung lao động: 
Số giờ làm việc hàng năm là thước đo quan trọng mức cung lao động. M ột số 
người lo ngại rằng thuế làm cho con người ít đầu tư để hoàn thiện các kỹ năng của 
mình. Lý thuyết kinh t ế mang lại sự hiểu biết đáng ngạc nhiên về việc làm cách nào 
mà hệ thống thuế gây ảnh hưởng đối với tích luỹ vốn nhân lực – tức là đầu tư vào 
chính con người để tăng năng suất. 
Xét ví dụ sau: Bình dự định tham dự chương trình huấn luyện công việc. Giả sử 
chương trình này sẽ làm tăng mức thu nhập suốt đời của Bình với giá trị hiện tại là B. 
Tuy nhiên, tham dự chương trình này, Bình phải mất một khoảng mất một khoảng 
lương C do không làm công việc hiện tai. Do đó, Bình quyết định sử dụng tiêu chuẩn 
đầu tư và chỉ tham gia chương trình huấn luyện khi lợi nhuận vượt quá chi phí B>C. 
 + Trường hợp mức cung lao động không đổi khi bị đánh thuế: 
Bây giờ giả sử thu nhập của Bình bị đánh t huế với thuế suất t. Thuế sẽ lấy đi một 
phần tiền lương cao hơn nhờ tham gia vào chương trình huấn luyện. Do đó, người ta 
dự đoán thuế làm giảm khả năng khiến Bình tham dự chương trình huấn luyện. Cách 
lý giải này là sai lầm. Để hiểu tại sao, hãy giả sử rằng sau khi có thuế Bình vẫn tiếp tục 
làm việc với số giờ như trước. Thuế thật sự làm giảm lợi ích của chương trình huấn 
luyện từ B xuống còn (1-t)B. Nhưng đồng thời, thuế cũng làm giảm chi phí. Chi phí 
của chương trình là phần tiền lương Bình mất đi. Vì tiền lương này cũng bị đánh thuế 
nên Bình không bị mất toàn bộ C mà chỉ mất (1-t)C. Quy ết định tham gia chương trình 
phụ thuộc vào việc liệu lợi nhuận sau t huế có lớn hơn chi phí sau thuế không: 
(1-t)B - (1-t)C = (1-t)(B-C) > 0 
Phương trình này hoàn toàn tương đương với phương trình (B – C >0). Bất kỳ sự 
kết hợp nào giữa lợi nhuận và chi phí được chấp nhận trước thuế thì cũng được chấp 
nhận sau thuế. Trong mô hình này, thuế thu nhập làm giảm lợi nhuận và chi phí với 
cùng một tỷ lệ, và do đó không ảnh hưởng đến đầu tư vào nguồn nhân lực. 
+ Trường h ợp mức cung lao động thay đổi khi bị đánh t huế: 
Giả sử, thay vì vậy, do thuế thu nhập, Bình tăng mức cung lao động (hiệu ứng thu 
nhập chiếm ưu thế). Trong trường hợp này, thuế làm gia tăng tích luỹ nguồn vốn nhân 
lực. Thực tế, mức cung lao động sau thuế là tỷ lệ tận dụng mức đầu tư nguồn vốn nhân 
lực. Một người làm việc nhiều giờ hơn thì tiền lương lớn hơn so với mức tăng tiền 
lương nhờ đầu tư vào nguồn vốn nhân lực. Do đó, nếu thuế t ạo ra nhiều việc làm thì nó 
cũng làm cho đầu tư vào nguồn vốn nhân lực trở nên hấp dẫn hơn, với những yếu t ố 
khác không đổi. N gược lại, nếu hiệu ứng thay thế chiếm ưu t hế làm giảm mức cung 
lao động thì tích luỹ nguồn vốn nhân lực không được khuyến khích. 
M ô hình đơn giản này đã bỏ qua yếu tố quan trọng: phần lời từ việc đầu tư vào 
nguồn vốn nhân lực thường không được xác định chắc chắn. Hơn nữa, một số loại đầu 
tư vào nguồn vốn nhân lực còn liên quan đến chi phí khác ngoài phần thu nhập mất đi, 
như học phí chẳng hạn. Cuối cùng, với thuế luỹ tiến t hì lợi nhuận và chi phí đầu tư vào 
nguồn nhân lực có thể bị đánh thuế với các mức thuế suất khác nhau. Tuy nhiên, xem 
xét những điều đó là để khẳng định các kết quả cơ bản – theo quan điểm lý thuyết, tác 
động của hệ thống t huế thu nhập đối với tích luỹ nguồn vốn nhân lực là không rõ ràng. 
Không may là hiện chưa có công trình nghiên cứu thực nghiệm về vấn đề quan trọng 
này. 
- Trả trọn gói: 
Khoản lương mà người chủ thường trả công cho công nhân bao gồm tiền lương, trợ 
cấp chăm sóc sức khoẻ, lương hưu, và các “bổng lộc” như được sử dụng xe của công 
ty, dụng cụ thể thao… Hầu hết các khoản tiền mang tính chất lương được chi trả cho 
người lao động đều không bị đánh thuế. Khi thuế suất biên giảm thì sức hấp dẫn của 
những loại thu nhập không chịu thuế cũng giảm và ngược lại. Do đó, những thay đổi 
thuế sẽ gây ảnh hưởng đến t hành phần của t iền lương trọn gói. 
- Khía cạnh chi tiêu công: 
Các phân tích trên đã bỏ qua việc sử dụng tiền thu thuế. Thực tế có phần t iền thu 
thuế được dùng để mua hàng hoá công, từ đó gây tác động đến quyết định là việc của 
người lao động. Nếu tiền thu thuế được dùng để cung cấp những phương tiện giải trí 
như công viên quốc gia t hì chúng ta kỳ vọng nhu cầu nghỉ ngơi tăng, các yếu tố khác 
không đổi. Ngược lại, nếu chi tiêu cho những phương tiện chăm sóc trẻ em có cha mẹ 
đi làm thì có thể gia tăng mức cung lao động. Do vậy, chúng t a nên kiểm tra kết quả 
mức cung lao động trên toàn bộ ngân sách chứ không phải chỉ là khía cạnh thuế. Trong 
thực tế, những nhà nghiên cứu dựa vào thực nghiệm không biết rõ là chi tiêu công ảnh 
hưởng đến quyết định làm việc khoảng bao nhiêu. Điều này do những khó khăn liên 
quan đến việc xác định cá nhân đánh giá như thế nào về t iêu thụ hàng hoá công, một 
vấn đề mà ta đã thảo luận trong một số bối cảnh khác nhau. 
III. MỨC CUNG LAO ĐỘNG VÀ THU THUẾ 
1. Sự thay đổi số thuế thu được và cung lao động 
 Hình 7. Thuế suất, gi ờ lao động và số thu thuế 
Hình 7 thể hiện tổng số giờ làm việc tối ưu đối với mỗi mức lương sau thuế, những 
yếu tố khác không đổi. Tiền lương trước thuế là w, tương ứng với L0 giờ lao động. Với 
thuế suất là t1, lương ròng là (1 – t1)w và mức cung lao động là L1 giờ, tiền thuế thu 
được là hình chữ nhật abcd. Nếu t huế suất t ăng lên đến t2, thuế thu được là eakf lớn 
hơn so với abcd, như vậy với thuế suất cao hơn thì số thuế thu được lớn hơn. Liệu 
chính phủ luôn thu được nhiều hơn khi tăng thuế suất không? Câu trả lời là không. Ở 
mức thuế suất t3, số thuế thu được là haji nhỏ hơn sao với mức thuế suất t2. M ặc dù 
tiền thuế thu được mỗi giờ là rất cao nhưng số giờ làm việc giảm đến nối mức thuế thu 
được lại khá thấp 
 Hình 8. Đường cong Laffer 
Đường cong Laffer biểu diễn quan hệ giữa thu ngân sách từ thuế của nhà nước với 
thuế suất. Ở mức thuế suất quá thấp thì số thuế thu được cũng thấp. Khi thuế suất tăng 
thì số thu thuế cũng t ăng, và đạt cực đại ở mức thuế suất tA. Ở mức thuế suất vượt quá 
tA, số thu thuế bắt đầu giảm, cuối cùng xuống tới 0. 
Một số điểm lưu ý: 
- Hình dạng đường cong Laffer được xác định bằng độ co giãn lao động so với thu 
nhập ròng. Với bất kỳ một thay đổi nào về thuế suất đều có một tỷ lệ % thay đổi tương 
ứng về mức lương ròng. 
- Vấn đề đặt ra là l iệu nền kinh t ế có thật sự vận hành ở bên phải tA hay không. 
- Những thay đổi mức cung lao động không phải là cách duy nhất mà theo đó thuế 
suất tăng có thể gây ảnh hưởng đến số thuế thu được. Người ta có thể thay thế tiền 
lương bằng những hình thức thu nhập không chịu thuế khi thuế suất tăng để số thu 
thuế vẫn có thể giảm, ngay cả mức cung lao động cố định 
- Ngay cả, nếu số thuế thu được không tăng khi thuế suất giảm thì không có nghĩa 
là không cần thiết phải giảm thuế suất. Việc xác định hệ thống thuế tối ưu phụ thuộc 
rất lớn vào những xem xét về xã hội và kinh tế. 
2. Chính sách thuế thu nhập hỗ trợ tiền lương cho người có thu nhập thấp và 
cung lao động: 
Chính sách thuế thu nhập đặc biệt hướng vào những người có thu nhập tiền lương 
thấp thông qua chương trình trợ cấp (Earned Income Tax Credit : EITC) nhằm thực 
hiện 2 mục tiêu: t ái phân phối và gia tăng cung lao động. 
Cơ cấu hiện hành của EITC: 
 Hình 9. Chính sách hỗ trợ thuế thu nhập 
Hình 9 thể hiện một người kiếm tiền đơn thân có 2 con trẻ. Ở mức thu nhập 10,550 
$, chính phủ trả cho cô t a 40 cent/đôla tiền lương, lên đến mức hỗ trợ tối đa 4,220 $ 
(40% của 10,550 $). Độ dốc của phần thu nhập đầu tiên là 0.40. Đối với phần thu nhập 
3,200 $ tiếp theo (tổng cộng lên đến 13,750 $), thì hỗ trợ thuế cố định ở mức 4.220 $. 
Vì thế, hình vẽ trở nên phẳng giữa 10,550 $ và 13,750 $. Một khi kiếm được thu nhập 
13,750 $, thì chính phủ bắt đầu giảm hỗ trợ, ở tỷ lệ 21% (21 cent). Với mức thu nhập 
kiếm được 33,750 $ và trên đó thì người lao động không còn trợ cấp. 
Tác động của EITC đến cung lao động: 
 Hình 10. Hiệu ứng EITC đối với cung lao động 
Hình vẽ này cho thấy 4 nhóm khác nhau: 
 Đối với những yếu tố ngoài lực lượng lao động, được đặt tại điểm A, EITC làm 
gia t ăng sự tham gia lực lượng lao động thông qua hiệu ứng thay thế. 
 Đối với những yếu tố ở điểm như B, sự trợ cấp tạo ra rất rõ ràng những ảnh 
hưởng đến giờ lao động. Hiệu ứng thay thế làm gia t ăng việc làm, trong khi 
hiệu ứng thu nhập làm giảm đi việc làm. 
 Đối với những yếu tố như là điểm C, trợ cấp làm giảm việc làm bởi vì hiệu ứng 
thu nhập. Không có hiệu ứng thay thế. 
 Những y ếu tố như là điểm D, ở đó số tiền EITC giảm xuống khi họ làm việc 
nhiều hơn, hiệu ứng t hay thế vượt trội, làm giảm cung lao động. 
3. Chính sách thuế đối với chăm sóc trẻ em và cung lao động 
Ví dụ: Giả sử việc đi làm ở ngoài với thu nhập 1.000$/tháng, mức thuế s uất đánh 
vào thu nhập là 50%. Chi phí chăm sóc trẻ em là 600$/tháng. N gười vợ sẽ lựa chọn thế 
nào giữa việc đi làm và ở nhà chăm sóc trẻ em. 
 Tình 
huống 
Thu nhập 
trước thuế, 
trước khi 
chăm sóc 
trẻ em 
Chi phí 
chăm 
sóc trẻ 
em